(Chị Việt Nga khi còn là học sinh trường Lý Tự Trọng)
(Chị Phạm Thị Việt Nga - Tổng giám đốc Cty Cổ phần Dược Hậu Giang)“HẠT GIỐNG ĐỎ” TỎA HƯƠNG!
(Giải II - không có giải I -cuộc thi Bút ký văn học TP. Cần Thơ 2006)
Viết về chị thật khó!
Tôi thật sự không biết phải viết về chị như thế nào. Bởi lẽ, trong tay tôi là ngồn ngộn những tư liệu với đủ các thể loại báo chí, văn học mà nội dung của nó đều có chung một điểm đến là Chị: Anh hùng lao động, Dược sĩ, Tiến sĩ kinh tế Phạm Thị Việt Nga, Tổng giám đốc Công ty cổ phần Dược Hậu Giang.
Nói về sự thành công của Dược Hậu Giang trên thương trường ư? Đã có rất nhiều bài viết in trang trọng trên những tờ báo, mà “măng – sét” của nó đủ đảm bảo cho những gì tác giả muốn chuyển tải đến bạn đọc. Hơn nữa, chính tự thân Dược Hậu Giang với sự tin cậy của người tiêu dùng, đã là một minh chứng hết sức thuyết phục.
Viết về cá nhân chị ư? Hẳn rồi! Nhưng... tôi sẽ viết về điều gì đây?!
Viết về danh hiệu “Anh hùng Lao động” thời kỳ đổi mới hết sức cao quý mà Nhà nước đã trao tặng cho chị, cùng nhiều danh hiệu mang tầm khu vực khác ư? Hay viết về tấm lòng luôn hướng về người nghèo, về những số phận bất hạnh mà chuyện “mổ heo” ngày 1-9-2006 vừa qua là một ví dụ? Có quá nhiều điều để nói về chị! Để có một bài báo hay! Tuy nhiên, cái làm tôi quan tâm hơn cả lại nằm ở một “phạm trù” hoàn toàn khác. Đó là: “Điều gì đã khiến chị có những quyết định “không giống ai”! Những quyết định mà một giám đốc doanh nghiệp Nhà nước “khác” có thể sẽ không quan tâm, vì nó không làm tăng hoặc giảm uy tín (chỉ mới nói về “uy tín” thôi!) của họ”. Thế nhưng, chị đã làm! Và chính cái “không giống ai” đó đã đưa tôi đến với một địa chỉ khá “đặc biệt”, nơi đào tạo những “hạt giống đỏ” của cách mạng trong thời kỳ chiến tranh ở miền Tây nam bộ.
Vào thập niên 60 của thế kỷ trước, khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước ở vùng ĐBSCL ngày càng phát triển, các vùng căn cứ lõm của Khu và một số tỉnh cũng mở rộng theo yêu cầu thực tế; các cơ quan, đơn vị lực lượng võ trang ngày một nhiều hơn. Tình hình mới đòi hỏi cán bộ, nhân viên (cả cán bộ, chiến sĩ trong quân đội) phải có trình độ học vấn tương đối nhằm đảm đương nhiệm vụ. Từ đó, Khu ủy Khu Tây Nam Bộ chủ trương xây dựng Trường Phổ thông nội trú Lý Tự Trọng dạy văn hóa cấp 1, 2 (hệ 10 năm) trong vùng căn cứ kháng chiến cho con em cán bộ của Khu và Tỉnh. Trong suốt thời gian tồn tại, trường đã đào tạo 9 khóa học, với khoảng 700 em học sinh (từ năm 1964 đến năm 1975). Biết bao lần trường bị máy bay Mỹ bắn phá hư hại, thậm chí đã bị phá hủy hoàn toàn. Nhưng sau đó đã được đồng bào, các thầy, cô cùng các em học sinh dựng lại, để công việc trồng người lại xanh tươi dưới mưa bom, bão đạn.
Nhà giáo ưu tú Hồ Thanh Khôi, nguyên hiệu trưởng trường Lý Tự Trọng nhớ lại: “ Trường Lý Tự Trọng không giống như những trường ở miền Bắc hay đô thị miền Nam lúc bấy giờ với: mái ngói, tường vôi... hay phượng nở đỏ sân trường, áo dài trắng tung bay. Mà trường của chúng ta núp dưới những bóng dừa hoặc cây bình bát, những lớp học giản dị, đơn sơ, mộc mạc. Thầy trò vừa lao động trong dân, mò cua, bắt cá, cấy lúa, trồng khoai, tham gia công việc đồng áng như những bà con nông dân thực thụ, để vừa học vừa làm, để kiếm tìm từng con toán, bài văn, chắt chiu dưới ánh đèn dầu đêm đêm, để lớn lên qua từng trang sách vở...
Có nhiều em chưa học xong một cấp, một chương trình, theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc chia tay bè bạn lên đường chiến đấu và cũng có một số em “trốn học” đi bộ đội, một kiểu “vô kỷ luật” rất độc đáo... Tôi nghĩ, ít có một trường nào trên đất nước nầy với số lượng học sinh không đông lắm, ở một độ tuổi rất nhỏ như thế mà trong chiến tranh chống Mỹ, đã đóng góp cho đất nước hàng trăm liệt sĩ ở lứa tuổi gọi là “trẻ con”. Tuy học tập lao động trong gian khổ nhọc nhằn, trong khó khăn thiếu thốn nhưng các em đã trưởng thành trong hòa bình, góp phần rất lớn trong công cuộc đổi mới, trở thành những cán bộ, đảng viên ưu tú như: Chủ tịch HĐND TP. HCM Phạm Phương Thảo, Trung tướng Phạm Hồng Lợi, Phó Tổng tham mưu trưởng QĐNDVN; đạo diễn Nguyễn Việt Hùng – giám đốc hãng phim TFS TP. HCM; Vụ trưởng Ban Dân vận TW Lê Trí Dũng... Và còn nhiều, rất nhiều những em đang giữ những cương vị lãnh đạo, quản lý chủ chốt của đất nước chúng ta”.
Thế với chị Phạm Thị Việt Nga, vị Tổng giám đốc khả kính của chúng ta thì sao?! Hãy nghe đôi dòng tự sự của chị: “...Tất cả chúng tôi đều có chung một hoàn cảnh, thiếu tình thương cha mẹ do phải đi kháng chiến, tất cả những nơi xuất thân trước khi đến trường đều là nơi cha mẹ gởi. Và, chính điểm chung ấy, đã cột chặt chúng tôi lại, đứa lớn chăm sóc đứa nhỏ, cha mẹ gởi tiền chia nhau mua bánh in ăn, mua pin nhuộm quần áo, mua bột củ năn khuấy ăn... Rồi cùng nhau đi cấy, bứt dây chọi bán, mót lúa bán mua máy may, mua heo, mua tập vở...
Ngày ấy, không có báo đài, không có truyền hình, không có những buổi học chính trị mà chỉ có những đêm thầy kể chuyện miền Bắc XHCN, kể chuyện về Bác Hồ, bạn bè kể cho nhau nghe về chuyện chiến đấu của quê hương mình, của cha anh mình! Thế mà nó thấm sâu tận xương tủy chúng tôi một lý tưởng cách mạng. Ngày ấy, không ai dạy chúng tôi xã hội hóa giáo dục, lấy dân làm gốc mà chúng tôi lại biết giữ em, mò cá, nấu cơm cùng ăn, cùng ở với dân, tuổi quá nhỏ để hiểu đường lối quần chúng của Đảng, nhưng chúng tôi biết được rằng: dân không thương là không có chổ ở, không có cơm ăn, không yên ổn đi học. Ngược lại, mỗi gia đình đều xem chúng tôi là con,là cháu của họ. Họ chăm sóc dạy dỗ và rầy la như bao nhiêu con cái trong gia đình...”.
Viết đến đây, có một điều gì đó khiến tôi chợt nhớ đến câu nói của Nhà nghiên cứu Trần Bạch Đằng: “Việc tôi hoạt động cách mạng sớm cũng dễ hiểu: gia đình tôi như thế, tôi phải như thế, không khác được” – (trang 61) – Trần Bạch Đằng – Cuộc đời và ký ức”. Ở nhà nghiên cứu Trần Bạch Đằng, những gì ông cống hiến, đóng góp cho cuộc đời chúng ta đã rõ. Còn với chị Phạm Thị Việt Nga thì sao? Chị Nga cũng thế! Không khác được. Chị đã sinh ra trong một gia đình có truyền thống cách mạng, đã tham gia kháng chiến chống Mỹ từ rất nhỏ, đã vào sinh ra tử; đã lội bộ đường Trường Sơn ra miền Bắc học tập, đã bước vào, ra cổng trường đại học, rồi trên đại học và là một trong vô vàn chiến sĩ trên mặt trận không có tiếng súng, mà sự cạnh tranh ác liệt trên thương trường cũng không kém phần khắc nghiệt. Thế nhưng, vượt lên trên chuyện “số phận” một người được sinh ra, trưởng thành trong chiến tranh như hàng triệu người Việt Nam yêu nước khác. Điều tôi muốn nói ở đây là “cái gì” đã giúp chị đứng vững (cả trong thời bao cấp dẫy đầy khó khăn, bó buộc lẫn thời kinh tế thị trường cởi mở nhưng không ít biến động chết người). Trong khi có không ít người, quá trình phấn đấu cũng không hề kém cạnh, lại thất bại, thậm chí gục ngã?!
Phải chăng, đó chính là những lời gởi gắm nỗi lòng của người cha đi kháng chiến, tình cờ gặp đứa con gái nhỏ của mình trên đường công tác: “Công tác giữa đường đón gặp con. Mừng trẻ nên người chóng lớn khôn. Nghĩa dân nuôi dưỡng so dường bể. Ơn Đảng luyện rèn sánh tựa non. Cha đáp ơn sâu bền dạ sắt. Con đền ơn Đảng chặt lòng son. Xoa tóc, cha khuyên con cố gắng. Cuối đầu con hứa lập nhiều công. – (Ghi lại theo chị Việt Nga – bài thơ của thân phụ: Ông Phạm Trọng Yêm). Hay còn vì một điều gì đó sâu xa hơn, mà những người theo nghề viết lách như tôi hay cả nghĩ?!
Năm 1988, chị Việt Nga nguyên Giám đốc Công ty Cung ứng Vật tư Thiết bị Y tế Cần Thơ, được điều về nhận chức giám đốc Xí nghiệp Liên Hợp Dược Hậu Giang. Cơ ngơi của xí nghiệp lúc bấy giờ chỉ là một khu nhà xưởng tẹp nhẹp, công nhân chỉ sản xuất bằng “tay” với một vài chiếc máy thủ công nho nhỏ còn sót lại từ “bưng biền”. Nhiều người quen biết đã nói với chị nên “dẹp” xí nghiệp đi là vừa! Nghỉ sản xuất... lấy danh nghĩa xí nghiệp nhận thuốc về bán là xong! Thật ra, tất cả những lời khuyên ấy đều rất chân tình và chí lý. Thời bao cấp chuyện khai tử một cơ quan Nhà nước chẳng có gì mà ầm ĩ, và vị lãnh đạo cũ sẽ được điều về làm giám đốc một cơ quan mới (biết đâu sẽ nhàn tản và no ấm hơn?!). Chị Nga đã “không” muốn như vậy! Theo suy nghĩ của tôi, đây là một trong những điều “không giống ai” của chị.
Mà đúng là không giống ai thật. Ai đời! Xí nghiệp Dược lại làm “ngoại hối”, rồi kéo “quân” lên Mộc Hóa (Long An) trồng tràm, trồng xã. Ừ! Cứ cho là trồng tràm, trồng xã để lấy tinh dầu đi. Nhưng chuyện lên Phước Long trồng tiêu, trồng điều; rồi về Bạc Liêu nuôi tôm, để rồi ngậm ngùi nhìn 60 triệu đồng trôi ra biển thì thiệt là! Chị Nga đã không hành xử như người đứng đầu một cơ quan Nhà nước, mà chị như một người mẹ nghèo khó phải tần tảo, quơ quào bằng mọi cách cho đàn con mình được no ấm (có người mẹ nào bỏ con mình được bao giờ!).
Năm 1988, giá trị tổng sản lượng của xí nghiệp chỉ đạt 3 tỷ đồng. Cả một thời gian dài “xoay xỏa” đủ nghề vẫn không khá lên được, hơn 300 công nhân là hơn 300 gương mặt lầm lũi như người cơ nhỡ, ám ảnh chị Nga trong từng giấc ngủ. Có thể, xen kẻ những hình ảnh chập chờn nửa đêm về sáng của chị lúc ấy, có cả bóng dáng bạn bè một thời ở rừng đi học; có giọt nước mắt khóc bạn hy sinh khi tuổi đời còn rất trẻ; có cả nỗi thòm thèm áo ấm, cơm no; có sự sẻ chia củ co, bông súng... Để rồi cái câu hỏi: Tiếng súng đã dứt lâu rồi, vẫn nghèo, vẫn đói hay sao?! Vẫn trở đi, trở lại trong đầu người nữ giám đốc. Phải chăng, chính cái tinh thần tập thể, một người vì mọi người mà chị được giáo huấn trong điều kiện thực tế hết sức khắc nghiệt thời chiến tranh, như một kim chỉ nam đã trở thành máu thịt, dẫn đường cho chị bước tới?! Và phải chăng chính từ sự khắc nghiệt của máu lửa đạn bom đã sản sinh ra lòng kiên định, ý chí quật cường, quyết không lùi bước trước khó khăn, đã vực chị đứng dậy?!
Tôi chưa có điều kiện tiếp xúc nhiều với chị, cũng như không đủ “độ” thân tình để có thể hỏi: “Quyết định nào là khó khăn nhất trong cuộc đời của chị?”. Thời chiến, chị còn “nhỏ nhít” không nói làm gì! Năm 2006, quyết định của vị Tổng giám đốc Công ty Cổ phần Dược Hậu Giang có thể làm thay đổi một “cục diện” nào đó, là điểm đến của báo chí trong và ngoài nước, liệu có khó khăn không?. Tuy nhiên, theo suy nghĩ chủ quan và nông cạn của tôi. Cái quyết định tinh giảm biên chế 69 người, ở thời điểm những năm cuối cùng của thập niên 80 thế kỷ trước, là quyết định đã lấy đi của chị không ít nước mắt. Giọt nước mắt của người mẹ tủi phận nghèo, không nuôi nỗi đàn con, phải gởi đậu, gởi nhờ “chạy đồng” qua bữa.
Tinh giảm biên chế (tạm thời, sau đó đã nhận lại tất cả) cho phù hợp tình hình sản xuất thực tế của xí nghiệp. Chị Nga vay tiền ngân hàng mua máy đóng nan, thiết bị tiên tiến đầu tiên của xí nghiệp để sản xuất thuốc kháng sinh (viên con nhộng). Tuy nhiên, những mặt hàng thuốc của Xí nghiệp Liên Hợp Dược Hậu Giang lúc bấy giờ (những năm đầu thập niên 90) hoàn toàn không được thị trường biết đến. Để bán được thuốc chị Nga đã phải chấp nhận mang “nhãn mác” một đơn vị khác ở TP. HCM; một kiểu “hồn Trương Ba – da hàng thịt” và như vậy, đương nhiên phần lãi: “da” sẽ nhiều hơn “hồn”.
*
* *
Năm 2006, sản phẩm của Dược Hậu Giang đã có mặt và được sự tin dùng ở 98% các bệnh viện lớn của hầu hết 64 tỉnh, thành trong cả nước. Giá trị tổng sản lượng tăng theo tỷ lệ thuận với thời gian: năm 1996 là 246 tỷ, năm 2000: 279 tỷ; đến năm 2004 là 421 tỷ, năm 2005 trên 500 tỷ; riêng năm 2006 đã đạt 800 tỷ. Nộp ngân sách Nhà nước năm 1996 là 6,4 tỷ, đến năm 2004 đã lên đến 12,4 tỷ đồng. Thu nhập bình quân đầu người năm 1996 là 1.600.000 đồng/người/tháng, thì năm 2005 đã tăng lên 4.900.000 đồng/người/tháng. Như vậy, Dược Hậu Giang đã tự hào và hết sức xứng đáng là thành viên CLB 500 tỷ của doanh nghiệp cả nước.
Tại Hội nghị tổng kết “Thập niên chất lượng lần thứ nhất 1996 – 2005” tổ chức tại Hà Nội năm 2005. Dược Hậu Giang và TS. Phạm Thị Việt Nga – Tổng Giám đốc Công ty, đã vinh dự được Sở Công nghiệp TP. Cần Thơ xét chọn là doanh nghiệp tiêu biểu. Trong bài tham luận phát biểu tại hội nghị chị Nga đã nói: “Có được những thành công như hôm nay, Dược Hậu Giang đã trải qua nhiều thăng trầm, nhiều sự trả giá, nhiều kinh nghiệm quản lý...”.
Năm 1992, những viên thuốc mang “mác” Dược Hậu Giang xuất hiện trên thị trường. Lần đầu tiên mang sản phẩm “Bắc tiến” tham gia một kỳ hội chợ, Dược Hậu Giang thất bại thảm hại! Nói theo ngôn ngữ quân sự, đoàn quân của nguyên soái Phạm Thị Việt Nga, thua tả tơi không còn manh giáp. Thiên hạ thì dập dìu tài tử giai nhân, còn mình “chùa Bà Đanh...” mưa phùn, gió rét. Lượng sức mình không đủ cho cuộc “tao ngộ chiến”, chị Nga quyết định áp dụng “chiến thuật du kích”. Chị cho hai nhân viên thuê một xe Honda, mang thuốc trực tiếp đến ký gởi các hiệu thuốc của ba mươi sáu phố phường Hà Nội; đến các nhà dân năn nỉ họ “xài thử”... Vậy rồi! Người lại nhớ đến Dược Hậu Giang mới ghê chứ! Nói vui một chút! Thật ra, để có được thương hiệu Dược Hậu Giang “nổi đình đám” như ngày hôm nay, chị Nga và các cộng sự của mình đã đổ biết bao tâm huyết, mồ hôi, nước mắt. Đó là những bước chân rã rời trên các con đường đất đỏ miền cao, mang quà Xuân và sản phẩm Dược hậu Giang đến với đồng bào dân tộc; đó là những lần hành quân về nguồn khám, chữa bệnh, phát thuốc miễn phí cho bà con vùng sâu, vùng xa; đó là chương trình “Thầy thuốc với mọi nhà” được phát sóng hàng tháng trên Đài Truyền hình Cần Thơ, mà chị Nga luôn là “chủ xị”; đó là “Chi hội bảo trợ bệnh nhân nghèo Dược Hậu Giang” được thành lập ngày 2-9-2002, đến nay đã đóng góp trên 2,5 tỷ đồng (trong ngày mổ heo vì bệnh nhân nghèo nhân kỷ niệm 32 năm ngày thành lập xí nghiệp Dược Hậu Giang 2/9/1974 – 2/9/2006, đã quyên góp được 559 triệu đồng, riêng CB,CNV công ty đóng góp trên 400 triệu đồng); đó là phần mềm “Hospital” dùng để quản lý mạng cho các bệnh viện, đơn vị y tế do Công ty Cổ phần Dược Hậu Giang thiết kế, bao gồm 12 mô-đun cụ thể quan trọng như: quản lý dược, viện phí, hồ sơ nhập viện, tiếp nhận bệnh, ra toa thuốc, báo cáo sổ sách của ngành y tế... giúp việc quản lý các bệnh viện chặt chẽ và hiệu quả hơn.
Việc quảng bá thương hiệu trong thời kinh tế thị trường hiện nay có thể nói là “thiên hình vạn trạng”. Dược Hậu Giang cũng đã đạt được điều mình mong muốn. Riêng tôi không hiểu sao giữa bao nhiêu là panô cao ngất trời, sắc màu rực rở; những gian hàng lộng lẫy với các chú rối xinh xinh, tiếng nhạc xập xình lôi cuốn... thì hình ảnh một chiếc ghe chèo len lỏi qua các kênh rạch, trên ấy có cô mậu dịch viên và sản phẩm của Dược hậu Giang (tôi đã thấy trong một phim tài liệu trên đài truyền hình). Rồi “túi thuốc gia đình”, một cái bọc nho nhỏ đựng vài thứ thuốc cần thiết thường dùng, đã gây cho tôi một ấn tượng hết sức sâu sắt. Phải là người rất Nam bộ, am hiểu mọi ngóc ngách cuộc sống nông thôn miền sông nước, mới thấy “chiếc ghe hàng” cần thiết thế nào trong sinh hoạt hàng ngày (xin phép được hỏi: phải chăng chị đang thấy lại hình ảnh một cô bé đang ngồi đợi ghe hàng dưới bến để mua bánh in chia cho bạn bè?). Còn “túi thuốc” thì đúng là thật gần gũi, giản dị với những người tay lấm, chân bùn (con nhà nghèo chuyện có một tủ thuốc gia đình đẹp đẻ, đúng quy cách nói thật là hơi khó và cũng xa xỉ quá). Nó gợi nhớ trong tôi hình ảnh “ruột tượng” đựng gạo của người chiến sĩ; là chổ mẹ dành dụm chút tiền nuôi con ăn học. Tôi chắc rằng cái làm người ta nhớ đến Dược Hậu Giang lâu hơn, khó quên hơn vì một lẽ đời rất đơn giản: đến với nhau trước hết vì tấm lòng.
Hiện nay, Công ty Cổ phần Dược Hậu Giang đã là cánh chim đầu đàn của ngành Công nghiệp Dược Việt Nam về cả sản lượng cũng như chất lượng. Ở tất cả các tiêu chuẩn quốc tế như: Thực hành sản xuất thuốc tốt (GMP), Thực hành bảo quản kho tốt (GSP), Thực hành phòng thí nghiệm tốt (GLP), Hệ thống quản lý chất lượng ISO 9001 phiên bản 2000 đều đạt yêu cầu. Riêng phòng Kiểm nghiệm được công nhận phù hợp theo tiêu chuẩn TCVN ISO/IEC 17025: 2001. Sản phẩm của công ty 10 năm liền được người tiêu dùng bình chọn là Hàng Việt Nam chất lượng cao (luôn đứng trong Top 5 ngành hàng Dược phẩm), ngoài ra Dược Hậu Giang còn nằm trong danh sách 100 thương hiệu mạnh doanh thu dẫn đầu ngành Dược Việt Nam. Mạng lưới phân phối của công ty trải dài từ Bắc chí Nam, vươn ra một số nước láng giềng như: Lào, Campuchia, Trung Quốc, Moldova... nhiều loại thuốc kháng sinh đặc trị như: Haginat, Klamentin, dòng thuốc giảm đau – hạ sốt Hapacol... “đủ sức” thay thế thuốc ngoại nhập với giá thành thấp hơn rất nhiều.
Để nói được hết những gì mà chị Phạm Thị Việt Nga và Dược Hậu Giang đã làm được “cho hôm qua, cho hôm nay, cho muôn đời sau”, chắc tôi phải chuyển sang viết “tiểu thuyết”, chứ phạm vi một bài bút ký thì khó lòng “cáng đáng” nổi. Thôi thì, ghi nhận 9 thành tựu nổi bậc của Dược Hậu Giang trong năm 2005 như một minh chứng. Đó là những thành tựu về: Hệ thống phân phối - Hệ thống chất lượng - Phát triển nguồn nhân lực - Hệ thống tài chánh - Hoạt động Maketing - Công tác nghiên cứu khoa học - Đầu tư cho hệ thống bệnh viện - Hoạt động xã hội và Thập niên chất lượng. Đã cho thấy tầm nhìn chiến lược và sự chuẩn bị hội nhập vào WTO của ban lãnh đạo Dược Hậu Giang một cách đầy đủ và hết sức chu đáo. Như chính đề tài: “Một số biện pháp nâng cao hiệu quả cạnh tranh của các xí nghiệp Dược quốc doanh Việt Nam” mà chị Nga đã bảo vệ thành công trong luận án tiến sĩ của mình.
Trong đêm mổ heo vì người nghèo 1-9-2006, ông Nguyễn Tấn Quyên, Ủy viên Trung Ương Đảng, Bí thư Thành Ủy TP. Cần Thơ đã nói: “Chăm sóc cộng đồng là nét văn hóa riêng của Dược Hậu Giang...”. Đây là điều mà không một ai có thể phủ nhận. Với chị Nga, cô học trò nhỏ của trường Lý Tự Trọng năm xưa, đã “bươn chải” để học tập và cống hiến trong cuộc đời, bằng những hành trang vô giá mà Đảng và Nhà nước đã trang bị cho chị từ khi còn ấu thơ. Càng trưởng thành, cái “cung bậc” văn hóa ấy lại càng được nhân rộng, lan tỏa, thấm đẫm đến mọi người chung quanh và toàn xã hội.
Tôi đã không dưới một lần “nằm vắt tay lên trán”, ngẫm nghĩ về cụm từ “Sứ mạng Dược Hậu Giang”. Thông thường, hai chữ “sứ mạng” hay được những người viết lách đặt vào tình huống “sống – chết”, có nghĩa để đạt được điều mình mong muốn “có thể hay chắc chắn!” là phải đánh đổi cả sinh mạng. Và, với chị Phạm Thị Việt Nga, thì tôi hiểu rằng chị đã đặt “Sứ mạng Dược Hậu Giang” qua lời cam kết: “Dược Hậu Giang cam kết cung cấp sản phẩm và dịch vụ chất lượng cao, đáp ứng tốt nhất nhu cầu bảo vệ sức khoẻ vì hạnh phúc của mọi người”. Chính là những gì chị luôn hướng tới và phấn đấu “bằng sống – bằng chết”.
Bởi lẽ, đó không chỉ là lời hứa của vị Tổng giám đốc một đơn vị sản xuất Dược phẩm – loại hàng hóa đặc biệt gắn liền với sức khỏe con người; mà đó còn là bổn phận và nghĩa vụ của cô học trò nhỏ với các má, các chú bác, anh, chị đã cưu mang cô một thời đạn bom, lửa đạn, nay vẫn còn biết bao khó khăn, thiếu thốn ở Rạch Gốc, ở kinh Đường Cuốc... xa xôi. Và, đó cũng là lời hứa với người cha kính yêu của chị: “Cuối đầu con hứa lập nhiều công” trong một chiều chiến dịch năm nào.
Và chị đã làm được!

