Thứ Tư, 18 tháng 6, 2008


ĐƯA EM GAI VỀ NHÀ CHỒNG

* Anh Ba viết tặng ÚT THẢO ngày đưa dâu

Lâu lắm rồi mới ngồi vỏ lải
Đưa em về cái xứ tít mù
Sông uốn lượn, lục bình sấp ngữa
Em gái có chồng lẫn lộn buồn vui

Nghĩ chuyện đời người muốn rời xa
Em nghịch lý vu qui xứ ruộng
Con gái lấy chồng Đài – Hàn đủ cả
Em lại về ca Lý Cắm câu

Em rể thiệt thà – em ruột đằm sâu
Của hồi môn má cho chẳng mấy
Đêm lạy xuất giá bờ mi nằng nặng
Nghe trỉu cả lòng khi bước ra đi

Đám cưới miệt vườn chan chát cụng ly
Ngĩ đồng rộng gió đưa mát rượi
Anh Ba – anh Tư – chị Năm – cậu Sáu
Chuyện ruộng nương, chuyện lúa má nổ dòn

Mai mốt đây làm dâu nhà chồng
Em cố nhớ câu “Tam tòng tứ đức”
Chồng đi trước – em kề bên sớm tối
Đồng rộng đồng sâu, vạn dậm đường đời

Đưa dâu về ngất ngưỡng nhìn trời
Mừng em gái gã chồng về ruộng
Cứ tưởng Tơ ông thời này mất việc
Lng mạn chữ yêu muôn thuở vẫn còn.



BÚT KÝ


vietnamaaa.noosblog



www.trantrungdao.com/




LỜI KHẨN CẦU CỦA ĐẤT


Hơn mười năm trước tôi đặt những bước chân đầu tiên đến với Long Phú trong vai một chàng trai si tình đi tìm nhà người yêu. Ngồi trên chiếc xe đò Cần Thơ – Long Mỹ, sản phẩm đặc thù của thời bao cấp còn sót lại. Xem hành khách chả ra cái “đinh” gì, nhưng dường như lúc ấy trong tâm trạng của người đang yêu tôi chẳng mấy bận tâm dến điều nầy. Tuy vậy, tôi cũng không khỏi thắc mắc khi thấy hầu hết các ngôi nhà ven đường đều có che phía trước một tấm bạt cao su hoặc một chiếc chiếu rất lớn áng mất cả phần chính diện. Đến khi hiểu ra thì than ôi ! chiếc áo sơ mi trắng mà tôi bỏ công o bế từng đường ly, nếp gấp đã đổi màu một cách thảm hại.
Sự tiếp đón ban đầu không lấy gì làm thân thiện nên khi đối diện với cái thị trấn vùng sâu, vùng xa dường như vẫn còn mùi thuốc súng dù đã có hơn mười năm giải phóng chẳng để lại trong tôi một ấn tượng gì đậm nét. Chỉ là chiếc cầu sắt khá cao lạnh lùng bắc qua sông mà gỗ lót cầu đã long đinh hở nhịp. Chỉ là những người dân quê lam lũ mà tôi đã gặp ở nhiều vùng đất mình đã đi qua. Nhưng đáng sợ nhất là chỉ có một chuyến đò duy nhất chạy tuyến Long Mỹ – Trà Ban, tức là chạy qua ấp Long Bình I, xã Long Phú nơi mà tôi cần phải đến.
Những người khách trễ đò như tôi lúc ấy vẫn còn có hai cách để đi: đó là quá giang ghe, xuồng bà con đi chợ về và cuốc bộ. Tôi đã chọn cách thứ hai, vì cách thứ nhất xem ra cũng chẳng dễ dàng gì để thử sức lại đôi chân đã từng lội suối, băng rừng của mình với hơn 7 km đường lổn ngổn đá mẹ, đá con và cũng quá thừa ổ voi, ổ gà. Con đường nầy nghe đâu đã được làm từ thời mồ ma thực dân Pháp, trải qua bao năm tháng thi gan cùng tuế nguyệt giờ nham nhở như đôi giầy da mà tôi đã đánh xi-ga cẩn thận nay bám đầy bụi đất và nặng như núi Ngũ Hành Sơn.
Lần diện kiến ấy, xã Long Phú giúp tôi hiểu ra một điều là tình yêu có sức mạnh diệu kỳ. Và tôi, dù không lấy gì làm thân thiện cho lắm nhưng cũng đã biết thêm một vùng đất mà bây giờ con tôi gọi là quê ngoại.
Trở lại Long Phú lần nầy tôi muốn nó như là một cuộc hành hương trở về với đất. Tôi muốn nghe đất thở, muốn nghe lời đất thì thầm. Cho dù tôi không phải là đứa con chôn nhau cắt rún của vùng quê nầy. Cho dù tôi chỉ là một người ngụ cư, ăn nhờ ở đậu. Thì hơn mười năm qua cũng đã biết thế nào là vị ngọt bùi của từng con ốc nhỏ, từng cọng rau dại sau vườn. Đã hiểu thế nào là nổi cay cực của đời nhà nông, thế nào là vị mặn mồ hôi giữa buổi trưa hè nắng lửa. Thế nào là nổi buồn cay đắng khi vụ mùa vừa xong thì trong nhà cũng vừa hết gạo.
Bến xe Long Mỹ – Long Phú nằm ngay ngã tư vào chợ, đối diện với bệnh viện huyện đã được xây dựng rất khang trang, bề thế. Mỗi ngày có 09 chiếc Daihatsu lần lược rời bến cách nhau mỗi tài 30 phút, suốt từ sáng sớm đến 5 giờ chiều. Ngoài ra còn cơ man nào là xe ôm đủ loại: Nhật có, Hàn Quốc có... mà có lẻ nhiều nhất là các loại xe Trung Quốc đỏ, xanh hào nhoáng. Vậy đó, phải chi đám cưới của tôi dời lại được đến năm 2001 nầy có lẻ sẽ không bị cái cảnh “... rước dâu bằng xuồng ba lá...”.
Đúng giờ chiếc Daihatsu rời bến dù hành khách chỉ mới hơn phân nữa số ghế. Tôi ngồi phía trước cùng tài xế ngắm nghía nhà cửa hai bên đường với bao suy nghĩ lan man. Đang vào mùa lũ nhưng con đường từ thị trấn Long Mỹ về xã Long Phú không còn cảnh lầy lội, sình sụp như mấy năm về trước. Qua cầu Hậu Giang 3 là đã bước vào địa phận của xã Long Phú và chỉ cần vượt qua khoảng 500 mét đường nữa chiếc cổng chào với dòng chữ xã văn hoá Long Phú như một lời mời trân trọng sẽ đưa ta đến với một vùng đất tuy xa xôi, heo hút nhưng đã được khắp nơi biết đến với đầy đủ cả hào quang sáng chói lẫn cay đắng bi thương.
Xã Long Phú trước kia là một làng thuộc Tổng Thanh Giang, quận Long Mỹ, tỉnh Rạch Giá. Trong kháng chiến chống Mỹ, theo sự phân chia ranh giới hành chánh của chế độ cũ quận Long Mỹ thuộc tỉnh Chương Thiện. Là một nơi mà chiến sự diễn ra rất ác liệt cho đến ngày cuối cùng của cuộc chiến. Trong hai cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc, xã Long Phú được biết đến không phải chỉ là nơi chi bộ Đảng đầu tiên của huyện Long Mỹ được thành lập năm 1937. Mà Long Phú còn có Họ đạo Trà Lồng, một họ đạo có quá trình hình thành từ hơn một thế kỷ trước.
Vào khoảng năm 1880, một linh mục người Pháp tên GRONET đã đến Long Phú khi mà nơi nầy còn là một vùng rừng rậm hoang vu, dẫy đầy thú dữ. Ông dựng lên ngôi nhà thờ đầu tiên tại kinh CARÊ (thuộc ấp Long An bây giờ) để giảng đạo, kêu gọi mọi người đến với Chúa. Hai tiếng CARÊ là do mọi người đọc trại đi từ chữ VOLONTAIRE tiếng Pháp có nghĩa là tình nguyện. Khi vị linh mục nầy kêu gọi mọi người tình nguyện đến đào kênh dẫn thủy nhập điền và đến sống trên bờ kênh nầy lập thành xóm ấp.
Một thời gian sau đó trong quá trình đi giảng đạo cũng như làm phúc cứu tế người nghèo, cha GRONET nhận thấy có một địa điểm phù hợp với việc xây dựng một nhà thờ có qui mô lớn hơn và có thể phát triển họ đạo trong tương lai nên đã dời nhà thờ về địa điểm mới tức nhà thờ Trà Lồng hiện nay. Trong lúc đi lại giữa hai địa điểm mới và cũ để chăm sóc phần hồn cho các con chiên trong họ đạo, cha GRONET dùng ngựa làm phương tiện giao thông. Nhưng cũng chính con ngựa bất kham ấy đã gây cho ông một vết thương chí mạng. Trước khi qua đời vị linh mục khai sinh ra họ đạo Trà Lồng đã trối trăn là muốn gởi thân xác ở chính vùng đất Nam bộ xa xôi nầy, chiều theo ý của người đã mất và cũng để tưởng nhớ người có công sáng lập ra họ đạo, những người kế tục đã chôn cha GRONET ngay giữa chính điện của ngôi nhà thờ hiện nay.
Trải qua 120 năm, kể từ khi cha GRONET đặt nền móng đầu tiên xây dựng họ đạo Trà Lồng đến nay đã qua 6 đời cha chánh xứ. Trong đó có 3 linh mục người Pháp và 3 linh mục người Việt. Riêng thời điểm từ năm 1960 đến 1975, họ đạo Trà Lồng do linh mục SIMÉON Huỳnh văn Tông quản hạt. Có thể nói đây là giai đoạn đen tối nhất trong lịch sử họ đạo, mà dấu ấn của nó vẫn còn là nổi ám ảnh kinh hoàng trong ký ức của không ít người.
Cụ Cao văn Sôi 85 tuổi, nhà ở ấp Long Hưng 2. Một người đã từng là Chủ tịch Hội đồng giáo xứ họ đạo Trà Lồng một thời gian dài nhớ lại:
- “Tôi có người em vợ tên Ba Xê tham gia cách mạng, cậu ấy cứ đi đi, về về và lấy nhà tôi làm địa điểm liên lạc nên tôi trở thành đối tượng được đặc biệt quan tâm của bọn lính ngoài Trà Lồng. Chính cha Tông đã cho lính bắt tôi tổng cộng 7 lần. Có lần ông cật vấn tại sao buổi chiều tôi đem trâu về nhà, rồi tối lại đem nó đi nơi khác? Tôi trả lời vì pháo binh của cha cứ nhắm hướng nhà tôi mà bắn, nên tôi sợ trâu bị lạc đạn chết, phải lén đem cầm nó ngoài bàu lớn. Không tin cha cứ cho người ra đó mà coi mấy cái vũng trâu nằm. Vậy mà, sau khi mấy thằng lính về báo lại đúng như lời tôi nói, cha Tông còn ra lệnh giam tôi thêm một ngày, một đêm vì cái tội dám nói trâu tôi chết cha phải chịu trách nhiệm.
Mỗi khi ổng lên nhà thờ làm lễ là lính gác đầy bên ngoài. Đi đâu cha Tông cũng có hai cận vệ kè kè hai bên, giáo dân ở xa đâu dám về đây dự lễ vì lạ mặt vào nhà thờ là bị bắt ngay. Lính của ổng đâu độ 5,6 trăm người và có cả hai cây pháo 105 ly như ngoài chi khu Long Mỹ. Thỉnh thoảng trực thăng lại về đáp xuống cái nhà nóc bằng chỗ dành riêng cho cha chánh xứ”.
Vậy đó, mục đích cao đẹp của bất cứ tôn giáo nào cũng đem đến sự bình an trong tâm hồn con người. Đều cổ xúy cho tính nhân ái và tấm lòng yêu thương con người vô hạn. Thế nhưng, khoảng thời gian 15 năm trước ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, nhà thờ Trà Lồng trở thành một lãnh địa riêng, mảnh đất Long Phú trở thành đất dữ trong sự cát cứ của những con người lợi dụng danh nghĩa thánh thần để phản đạo, hại đời.
Cụ Tám Sôi kể tiếp:
- Có lần bộ đội ta đánh vào Trà Lồng, vừa chết, vừa bị bắt rồi cha Tông ra lệnh tử hình trên 30 người. Đâu có ai dám đến lấy thây. Cuối cùng tôi cùng một vài người nữa đã chạy tiền mua ván đóng hòm đem chôn mấy ổng.
Anh Mười Bé, cán bộ Mặt trận của xã Long Phú nói với tôi cha Tông mang cấp bậc chuẩn tướng của chế độ trước. Điều đó không còn quan trọng nữa nhưng nó lại gợi cho tôi nhớ đến một giai thoại có liên quan đến cha Tông và đại tá Hồ ngọc Cẩn, tỉnh trưởng tỉnh Chương Thiện trong thời kỳ chiến tranh. Người mà ngày 30 - 4 - 1975, vẫn ngoan cố tử thủ để rồi nhận lấy bản án thích đáng của nhân dân.
Anh Bằng, một người bạn vong niên của tôi hiện sống tại thị trấn Thốt Nốt vốn là lính truyền tin của tiểu khu Chương Thiện ngày ấy kể lại:
- Trước khi về nhậm chức tỉnh trưởng Chương Thiện, Hồ ngọc Cẩn đã nghe nói nhiều về cha Tông. Rằng ông là người có thế lực rất mạnh, có thể chi phối cả vùng IV chiến thuật. Các vị tỉnh trưởng sau khi về nhậm chức đều phải xuống ra mắt vị linh mục nầy để mong nhận được sự che chở, đảm bảo cho cái ghế tỉnh trưởng được lâu bền. Thế nhưng, đối với Hồ ngọc Cẩn việc nầy không thể chấp nhận được. Cẩn bỏ qua cái thủ tục đã tồn tại khá lâu nầy.
Riêng cha Tông, bực mình vì sự hỗn hào nầy đã điện thoại đến tiểu khu Chương Thiện để gặp trực tiếp với Hồ ngọc Cẩn. Lần thứ nhất, Cẩn bảo bận không tiếp chuyện được. Lần thứ hai, Cẩn vẫn bảo bận. Cho đến lần thứ ba, khi Cẩn vừa cầm máy nghe cha Tông đã hỏi với cái giọng đầy đe dọa: -“Hình như Trung tá không thích cái chức Tỉnh trưởng tỉnh Chương Thiện? Hồ ngọc Cẩn đáp lại:- Thưa cha! Đúng vậy, tôi đâu có muốn về đây. Chỗ của tôi là ở ngoài chiến trường kìa. Chỉ có đánh giặc tôi mới lên tướng được. Còn ở đây thì biết đến bao giờ”
Câu chuyện chỉ có vậy và tôi cũng không muốn bình luận gì thêm. Kết thúc của nó như thế nào thì chúng ta đã rõ. Trong đợt tham quan Bảo tàng tỉnh Cần Thơ vừa qua dành cho trại viên trại sáng tác, tôi đã trông thấy trong số hiện vật chứng tích chiến tranh có chiếc đồng hồ đeo tay của Hồ ngọc Cẩn, kim đồng hồ dừng lại ở con số 17 giờ 5 phút. Có thể nó đã qua tay một ai đó trước khi về nằm trong tủ kính làm một thứ tỉnh vật vô hồn. Nhưng tôi cứ muốn nghĩ rằng đó chính là thời điểm Hồ ngọc Cẩn buông súng bị bắt, cái thời khắc hoàng hôn cuối ngày, báo hiệu phút cáo chung của một chế độ đã suy tàn.
Nhà thờ Trà Lồng hiện nay đã được sửa sang, trùng tu trông rất khang trang, đẹp mắt. Khoảng sân trước nhà thờ là một công viên có ghế đá, có cây cảnh để sau mỗi buổi lễ cầu chúa các con chiên trong họ đạo có thể ngồi bên nhau mà nói về cuộc sống hiện tại hoặc luận bàn tương lai. Phía bên phải nhà thờ từ ngoài nhìn vào là đất thánh. Ở đó có những con người đã từng cầm súng bắn giết đồng bào, họ đạo, nay trở về các bụi tất cả đều là những con chiên ngoan đạo nép mình dưới bàn tay nhân từ của chúa.
Linh mục Nguyễn văn Chính, cha chánh xứ họ đạo Trà Lồng hiện nay. Người nguyên là Chủ tịch Uỷ ban đoàn kết công giáo yêu nước Việt nam tỉnh Hậu Giang (cũ) tiếp chúng tôi tại ngôi nhà nóc bằng. Ngôi nhà dành cho các cha sở và cũng là nơi lưu giữ các hình ảnh, kỷ vật của các đời cha sở đã qua. Khi nghe tôi hỏi về việc phối hợp giữa nhà thờ và chánh quyền địa phương trong việc thực hiện các chủ trương, chính sách của Nhà nước, cha đáp:
- Thường thì trước khi đề ra các phong trào hay cổ động cho một chủ trương, chính sách nào đó, cán bộ chính quyền, mặt trận đoàn thể đều có trao đổi với nhà chung, cùng phối hợp với các linh mục động viên giáo dân tham gia thực hiện. Tôi cho rằng đây là cơ sở để tạo nên sự đoàn kết toàn dân cùng góp sức xây dựng quê hương.
Cha Chính còn nói với tôi nhiều điều khác nữa nhưng tựu trung vẫn là làm thế nào để quê hương giàu đẹp, làm thế nào để nâng cao đời sống mọi mặt cho tất cả mọi người cả lương và giáo. Sau đó cha dẫn tôi đi tham quan nhà thờ và chỉ cho tôi biết chỗ linh mục GRONET đang yên giấc nghìn thu.
Trước khi ra khỏi nhà thờ đi ngang qua nơi làm lễ xưng tội, bất chợt tôi tự hỏi: Liệu đã có một ai đó quỳ xuống đây sám hối vì những tham vọng đen tối của mình?

*
* *
Long Phú là một xã vùng nông thôn sâu, cách trung tâm huyện Long Mỹ 21 km, nằm trên trục đường thủy liên tỉnh, tiếp giáp địa bàn huyện Mỹ Tú và Thạnh Trị của tỉnh Sóc Trăng. Sau ngày thống nhất đất nước vừa thoát khỏi cảnh chết chóc, cảnh cha con, vợ chồng ly tán thì người dân ở đây lại phải đối mặt với cuộc chiến mới. Cuộc chiến chống đói nghèo.
Tôi nhớ rất rõ vào những năm đầu của thập niên 90, người dân ở Long Phú vẫn còn nghèo lắm. Ruộng đất trầm thủy, nhiễm phèn mặn lâu đời nên chỉ trồng được lúa một vụ mà năng suất thì cũng lên xuống bất thường như con nước thủy triều. Một dạo không biết ai bày ra phương pháp sạ gởi mà cha vợ tôi phấn khởi lắm. Khi bắt đầu gieo sạ vụ thần nông ông trộn vào cả giống lúa mùa. Đến khi thu hoạch xong vụ lúa sớm thì cây lúa mùa cũng đã được 3, 4 tháng tuổi. Vụt xuống một đợt phân cho cây lúa mùa vượt lên, đợi thêm khoảng 2 tháng nữa lại tiếp tục thu hoạch đợt hai. Hiệu quả kinh tế thì đã rõ, nó giúp người nông dân giảm đi một khoản thời gian và chi phí đáng kể nhưng để thoát nghèo thì rỏ ràng là không thể.
Cũng vào thời điểm nầy Nhà nước đang khuyến khích nông dân làm giàu bằng kinh tế vườn. Báo Hậu Giang (củ) lúc ấy cứ vài kỳ lại có bài về một triệu phú miệt vườn mà ông Chín Khương ở Châu Thành chính là mô hình mẫu. Trông người lại nghĩ đến ta. Cha vợ tôi lúc ấy cũng có vườn, nhưng lại là vườn tre, vườn trúc. Đôi ba tháng, nữa năm gì đó bán đi một đợt cho lái, nhưng thật ra cũng chẳng bỏ bèn gì. Mà không trồng trúc, trồng tre thì biết trồng gì với cái thứ đất lưu niên quến phèn nầy?!
Tất cả đều trông chờ vào Nhà nước.
Ông nhạc tôi không bỏ sót một buổi thời sự nào của Đài Truyền hình Cần Thơ trên chiếc Tivi trắng đen 14 inch. Chiếc Tivi độc nhất của cả xóm. Có lần ông hỏi tôi về cụm từ chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và thế nào là mô hình VAC nhưng sau đó lại thừ người ra nghĩ ngợi.
Chuyện thoát nghèo vẫn đang đi vào ngỏ cụt, ít ra là đối với bà con thân tộc bên vợ tôi. Thì đùng một cái xảy ra vụ “xã Long Phú dở cầu Trà Ban bán phế liệu”. Đó chính là cái tít bài báo Hậu Giang đã đăng ở chuyên mục Sổ tay phóng viên mà tôi nhớ như in.
Năm 1990, xã Long Phú vừa tách ra thêm xã Tân Phú (chỉ một thời gian ngắn, sau đó sát nhập lại cho đến nay). Nhưng ấp Long Bình I, thuộc xã Long Phú là ấp có tuyến đường giao thông chiến lược chạy dài từ thị trấn Ngã năm, huyện Thạnh Trị đến thị trấn Long Mỹ, ra Vĩnh Tường, Cần Thơ. Con đường nầy được xây dựng từ thời Pháp thuộc để phục vụ chiến tranh. Trải qua hai thời kỳ kháng chiến, bom đạn đã làm hư hại rất nhiều, xe cộ không còn lưu thông được nữa. Nhưng trong thời bình, việc khôi phục lại tuyến đường nầy là hết sức cần thiết. Nó mở ra rất nhiều triển vọng cho việc phát triển kinh tế.
Trên tuyến đường nầy cầu Trà Ban có một vị trí rất trọng yếu. Đấy là loại cầu sắt 3 nhịp, lót gỗ dài khoảng trên 50 mét bắt qua sông Trà Ban. Trong chiến tranh bom đạn làm nghiêng đi một nhịp nhưng sau đó đã được gia cố lại bằng trụ thông rất chắc chắn. Trong biên bản do phòng Giao thông huyện Long Mỹ lập ra lúc ấy còn ghi rỏ: chất lượng thép còn 90%, và giá trị của nó mặc dù đã hư hại vẫn còn cao gấp vài trăm lần so với cái giá 1 triệu đồng mà đương kim chủ tịch xã Long Phú lúc bấy giờ ký hợp đồng bán cho một người thu mua phế liệu ở Thạnh Trị.
Chưa nói đến chuyện cầu Trà Ban đã được xếp vào dạng tài sản quốc gia, ngay cả tỉnh cũng không có quyền thanh lý như kiểu bán tống, bán tháo mớ phế liệu rẻ tiền mau hỏng. Đằng nầy, kế hoạch khôi phục lại tuyến đường ở thời điểm ấy đã nằm trên bàn các vị lãnh đạo. Hậu quả từ tầm nhìn hạn chế của người đứng đầu xã Long phú lúc bấy giờ không phải chỉ là bản án kỷ luật một vài cá nhân nào đó, mà nó đã phá luôn cả dự án khôi phục lại tuyến đường có tính chiến lược nầy.
Kinh tế chậm phát triển đã đành, mà ngay cả hơn 10 năm sau khi Long Phú tiến hành xây dựng lại hệ thống giao thông nông thôn trong xã để đáp ứng nhu cầu đi lại trong giai đoạn mới. Cũng như để tiến lên xây dựng mô hình ấp, xã văn hóa đã phải đi một đường vòng vừa khó khăn, tốn kém hơn, vừa thiếu tính chiến lược vì kinh phí của một xã không thể nào kham nổi việc xây dựng lại chiếc cầu có qui mô như cầu Trà Ban.
“Hết cơn bỉ cực đến hồi thới lai”. Ông nhạc tôi hay nói như vậy để khuyên con cháu cố gắng chịu đựng, vượt qua thời kỳ khó khăn. Điều nầy quả là đã đúng với người dân xã Long Phú. Cùng với thời điểm nhập xã, tỉnh đã cho đào kênh HG 3, bắt đầu từ Phụng Hiệp xổ ngang qua Long Mỹ như một luồng nước mát tưới tắm cho vùng đất cổi cằn nầy. Như cô Tấm bước ra từ trái thị, đất đai ở Long Phú cởi dần chiếc áo phèn chua mặn từ bao đời mà thiên nhiên khắc nghiệt đã đặt để. Từ cây lúa mùa chuyển sang hai vụ rồi ba vụ. Những mầm cây ăn quả đã được đặt xuống, mặc dù chỉ mới ở tính tự phát, nhỏ lẻ nhưng rỏ ràng chuyện chú Tám Lắm ở Long Bình I bán nhãn được vài chục triệu, sau đó lại cho lên bờ hết số đất ruộng còn lại là một nguồn tin hết sức sốt dẻo. Cha vợ tôi cũng hào hứng không kém, mấy công trúc quanh nhà được hạ xuống và thay vào đó là giống xoài cát Hòa Lộc được đặt mua tận trường Đại học Cần Thơ. Ông lập luận:
- Mua cây giống trôi nổi trên ghe thì rẻ hơn và nhẹ công vận chuyển nhưng lại không chắc ăn. Thà chịu tốn một chút mà có giống tốt lại được hướng dẫn kỹ thuật tận tình. Tính toán kỷ vẫn lợi hơn rất nhiều.
Tám Nhựt, người anh em bạn rể với tôi trong một tiệc nhậu đã cao hứng:
- Có hai công ruộng trong tay, mỗi năm tôi dư được một cây vàng.
Có thể đó chỉ là câu nói vui trong lúc trà dư tửu hậu nhưng chính điều đó cũng cho thấy người nông dân đã tin tưởng vào mãnh đất dưới chân mình.
Đúng lúc ấy, lại xảy ra một sự kiện cũng nổi đình, nổi đám không kém vụ bán cầu Trà Ban nhưng ở một góc độ khác. Đó là việc Long Phú được công nhận là xã văn hóa đúng vào cái ngày cuối cùng của năm 1996.
Hào quang của ngày khánh thành xã văn hóa đầu tiên của tỉnh và cũng là đầu tiên của ĐBSCL như một ngụm rượu mạnh làm lâng lâng tất cả mọi người. Hàng chục chiếc xe bốn bánh tung bụi mù lướt nhanh về Long Phú. Chủ tịch xã Tám Hiếu tất bật tới lui, tay bắt mặt mừng. Nhìn ông ta lúc ấy không ít người đã nghĩ thầm: Rồi đây ông ta sẽ còn đi lên nữa trên con đường hoạn lộ. Một dạng cán bộ trẻ có năng lực đang được chú ý. Cha vợ tôi lúc ấy hay nhắc tới Tám Hiếu như một tấm gương cho con cháu noi theo.
Không lâu sau đó, mặc dù ở Cần Thơ nhưng tôi cũng nghe tin chủ tịch Tám Hiếu trúng số độc đắc 5, 6 trăm triệu đồng.
Đúng là có thời.
*
* *

Tiếp tôi tại văn phòng UBND xã Long Phú, phó chủ tịch Võ văn Mốc nhớ lại:
- Thật ra việc đưa Long Phú trở thành xã văn hóa ở vào thời điểm ấy là quá vội vả. Cái danh hiệu lá cờ đầu đã khiến những người có trách nhiệm của xã Long Phú lúc bấy giờ phạm vào những sai lầm đáng tiếc. UBND xã mà đứng đầu là chủ tịch Tám Hiếu đã vay mượn rất nhiều khoản tiền lớn từ nhiều nguồn khác nhau với lý do xây dựng xã văn hóa. Tiêu cực, tham ô cũng từ đó phát sinh. Đã năm năm rồi, chủ tịch Tám Hiếu và bí thư của cái ngày công nhận xã văn hóa ấy đã bị kỷ luật nhưng hậu quả của nó là những khoản nợ vẫn còn đeo đẳng đến bây giờ.
Vậy đó, trong vòng bốn mươi năm trở lại đây. Mãnh đất Long Phú đã phải nhận vào mình biết bao điều do chính con người tạo nên. Hết là đất dữ đầy đe dọa chết chóc lại trở thành một vùng đất điển hình được khắp nơi biết đến với đủ thứ mỹ từ đẹp đẻ. Để rồi chính người dân chớ không ai khác phải nhận lấy hậu quả là những năm tháng đói nghèo triền miên.
Long Phú đang hồi sinh trở lại, chiếc cổng chào cũng đã được làm mới đặt trang trọng cách địa điểm củ khoảng 500 mét, nơi bắt đầu của 14 km đường nhựa dẫn đến trung tâm xã. Tôi không muốn nêu ra đây những số liệu khô cứng để minh chứng cho sự đi lên của Long Phú. Liệu cái % tỷ lệ so sánh nào đó có thay thế được cho khu trung tâm thương mại đang sừng sửng ở cửa ngỏ ấp Long Bình I và còn thêm 3 điểm chợ nữa đang hình thành trong toàn xã. Tôi tin rằng Long phú sẽ đi lên với thực lực vốn có của mình và với những con người tha thiết yêu vùng đất mình đang sống.
Để chấm dứt bài viết nầy tôi xin nói thêm một điều. Nếu những thửa ruộng, dòng sông ở Long Phú nầy có được cảm xúc, suy nghĩ thì sau bao năm oằn mình vì những toan tính của con người sẽ thốt lên rằng: “Xin hãy để người ta nhớ tới Long Phú như nhớ tới một vùng đất ngọt ngào. Nơi khởi đầu cho tình yêu và hạnh phúc”.


THƠ VIẾT TẠI BỆNH VIỆN MẮT CẦN THƠ

* Kính tặng Chị Đôi và các Y- Bác sĩ, Y tá
bệnh viện Mắt Cần Thơ.


Chỉ nhìn thôi cũng chẳng nên thân
Chẳng lẽ móc "mi" ra chà giấy nhám!
Cũng may trái tim còn mạnh chán
Tay viết thơ tình cũng ít hư hao

Yêu sách gì thì "mi" cũng tào lao
Bắc chước người say nhìn gà hóa cuốc
Hai con mắt ra đời cùng một lúc
Hơn kém tranh nhau thằng tỏ - thằng mờ

Thuở tóc xanh mắt sáng đến trường
Nhìn phía trước thấy cái gì cũng đẹp
Cô bạn gái tóc dài - tóc ngắn
Hai mắt như nhau chớp chớp đa tình

Bỏ phố phường "Hành…" một phát lên rừng
Giương súng ngắm đầu ruồi trúng đích
Đi suốt thời áo lính cái nhìn rực lửa
Khóc bạn đôi khi mắt cũng lệ nhòa

Ai nói gì "mi" mà giận dỗi chẳng nhìn?
Kệ thiên hạ chen nhau giành giật
Hậu "W…" nên tiền là chuẩn mực
"Mi" phải biết thân: ráng viết lách làm giàu!?

Nói vậy thôi đời chẳng thiếu gì tình
Ta đã gặp ngay tại đây. Bệnh viện
Cô y tá nhỏ nói cười luôn miệng
Cám ơn em đã đem đến mùa Xuân!

(Ngày mổ mắt 21 - 11 - 2007)
CUỘC THI BÚT KÝ VĂN HỌC TP. CẦN THƠ 2006

Ngày 24-01-2007, website Thơ trẻ có bài “Cuộc thi Bút ký văn học TP. Cần Thơ năm 2006: Giải nhất không phải là bút ký?” của tác giả Lê Xuân đề cập đến việc xét và trao giải Nhất cho tác phẩm “Vầng dương trong mây xám” tác giả Hà Bích Liên, của ban giám khảo - ban tổ chức cuộc thi nói trên chưa thật sự thuyết phục.
Sau đó ngày 05-02-2007, trên Tiền Phong Online lại có bài
“Mượn người đứng tên và nhận giải” của tác giả Sáu Nghệ. Lần nầy vụ việc lại liên quan đến tác phẩm đoạt giải nhì “Hạt giống đỏ tỏa hương” ký tên Vĩnh Hưng khi gởi dự thi, sau đó trên báo Xuân Cần Thơ 2007 cũng bài viết nầy nhưng lại mang một tên khác là Nguyễn Trung Nguyên?
Vì sao lại có quá nhiều chuyện “lộn xộn” như thế trong một cuộc thi văn học, nơi mà những giá trị văn hóa thẩm mỹ “thật sự” phải được trân trọng tôn vinh. Điều đáng quan tâm hơn, Cần Thơ hiện nay đã là thành phố trực thuộc TW, tới đây Hội Văn học nghệ thuật TP. Cần Thơ sẽ là Liên hiệp các Hội VHNT; và Phân hội văn học sẽ là Hội Nhà văn TP. Cần Thơ. Liệu với những gì đã xảy ra, những người làm văn nghệ (nói riêng trong lĩnh vực văn học) sẽ nghĩ gì? Viết gì? Nếu những người “trong cuộc” và “có trách nhiệm” không bóc tách cho “đến đầu đến đũa” một “nghi án” văn chương đáng xấu hổ nầy?
Tác giả Sáu Nghe (S.N) đã viết trên Tiền Phong Online “Chuyện ly kỳ nầy xảy ra tại cuộc thi bút ký văn học TP. Cần Thơ 2006”. Thật ra, câu chuyện nầy chẳng có gì để gọi là “ly kỳ” cả, nếu nhà báo S.N làm đúng chức trách của một nhà báo có nghề là tìm hiểu tường tận bản chất của vấn đề, sau đó có một bài báo thấu tình đạt lý, hơn là vội vã viết ra vài trăm chữ mà trong đó cố tình “lập đi lập lại” cái sai của chính mình (anh Phạm Vĩnh Hưng chỉ là một kỹ thuật viên của báo Cần Thơ, không phải là phóng viên, hoàn toàn chưa có một tin bài nào trên báo, đừng nói đến việc viết bút ký văn học). Như vậy tác giả Sáu Nghệ (cũng là hội viên Phân hội văn học và là người đoạt giải Ba trong cuộc thi nầy. Và tác giả Nguyễn Trung Nguyên người mà bài báo viết là “hội viên cao tuổi” sinh năm 1961, nhỏ hơn nhà báo SN khá nhiều?) cố tình nêu lên những điều không đúng sự thật để làm gì?
Như đã nói ở trên, thật ra câu chuyện nầy chẳng có gì “ly kỳ” cả, mà đó chính là hệ quả của lối điều hành, lãnh đạo “chẳng biết phải gọi như thế nào” của những người có “vai vế” của Phân hội Văn học và cao hơn là Hội VHNT TP. Cần Thơ trong suốt một nhiệm kỳ qua 2001 - 2006.
Cũng là người chọn viết lách làm công việc chính để mưu sinh, dù viết báo hay làm văn nghệ, chắc rằng tác giả S.N cũng mong muốn những gì mình viết ra được đánh giá đúng mức, nhất là trong một cuộc thi văn học. Cái danh dự được đứng trên bục nhận giải thưởng với tên tuổi của chính mình có ai mà không muốn, nếu không vì một lý do đặc biệt nào đó? Tiếc thay!
Và cái lý do đặc biệt đó là đây:
Phân hội Văn học trực thuộc Hội VHNT TP. Cần Thơ hiện có trên 60 hội viên sinh hoạt, trong đó hầu hết đã cao tuổi, là cán bộ dân chính, quân đội về hưu, những người sinh năm 1960 về sau chỉ đếm trên đầu ngón tay. Sự hụt hẫng lực lượng kế thừa (chỉ mới nói kế thừa thôi, chứ việc phát triển “tài năng văn học” xin lỗi không dám lạm bàn) là điều ai cũng thấy rất rõ. Cần Thơ chỉ có 04 người là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, đó là: nhà thơ Lê Chí, nhà văn Khai Phong, nhà văn Lê Đình Bích, nhà văn Lương Minh Hinh. Tuy nhiên, chỉ có nhà văn Khai Phong là còn sinh hoạt, gắn bó với Hội (ông là Phân hội trưởng Phân hội Văn học) mặc dù vừa qua cũng đã làm thủ tục về hưu; còn những người khác đều có công việc riêng, ít khi xuất hiện tại cơ quan hội.
Là một hội đoàn xã hội nghề nghiệp, nên sự ràng buộc hội viên chỉ mang tính ước lệ như đóng hội phí, họp mặt định kỳ… ai thích thì sinh hoạt và ngược lại. Còn hoạt động của phân hội văn học có thể gói gọn như sau: phát triển hội viên mới; giới thiệu hội viên xứng đáng lên Hội Nhà văn Việt Nam; chuyển tải sáng tác của hội viên trên tạp chí; tổ chức đi thực tế và cử hội viên dự trại sáng tác; chọn tác phẩm in ấn từ quỹ hỗ trợ sáng tác của Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam hàng năm; tổ chức các cuộc thi văn học mà cuộc thi bút ký vừa qua là một ví dụ.
Rõ ràng, với những hoạt động như thế phân hội Văn học là nơi hết sức cần thiết và quan trọng đối với những ai yêu thích văn chương và chọn viết lách là mục đích để theo đuổi. Vậy thì, tại sao nhiều năm qua Cần Thơ chỉ có một người (nhà văn Lương Minh Hinh) được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam? Trong khi các địa phương trong khu vực con số hội viên TW ngày càng nhiều? Cần Thơ thiếu tài năng chăng? Hay còn vì một lý do nào đó khác nữa?
Có thể nói mọi chuyện bắt đầu từ khi vị Chủ tịch đương nhiệm của Hội VHNT TP. Cần Thơ hiện nay- ông Tô Hoàng Vũ- vốn là phóng viên ảnh của QK9 chuyển về nhận trách nhiệm “trùm sò”. Sau đó một thời gian ngắn lại có quyết định làm Tổng biên tập tạp chí Văn nghệ Cần Thơ, diễn đàn duy nhất của các loại hình nghệ thuật Cần Thơ đang có. Một thời kỳ mới chăng? Đúng vậy, cả nhiệm kỳ qua Hội Văn nghệ Cần Thơ như một lãnh địa cát cứ của những người có danh xưng là nghệ sĩ. Sự thay đổi rõ nhất mà “người ngoài” dễ dàng nhận ra là diện mạo của tờ tạp chí: hình thức ngày càng đơn giản, nội dung ngày càng khó đọc, những cây bút tên tuổi ngày càng ít đi. Mà thay vào đó là những bài “tràng giang” trích dẫn văn kiện (nếu cần vào thư viện không thiếu!); còn chuyện thơ văn, có lẽ anh em văn nghệ sĩ Cần Thơ không quên chuyện tạp chí đã in xong lại phải ngồi hì hục dán lại!? Không ít nhà thơ có tiếng từng là “nạn nhân” của kiểu biên tập “kéo tác phẩm xuống cho bằng mình!”.
Tuy nhiên, chuyện “tài năng” có lẽ phải chờ thời gian thẩm định. Cái “nhỡn tiền” nhất trong thời kỳ nầy lại nằm ở một phạm trù khác “siêu nhiên” hơn. Mà chuyện nhà thơ LC là một ví dụ: ông được thủ trưởng cơ quan quyết định “phải” về hưu trước khi chính sách nâng lương của Nhà nước có hiệu lực (lần thứ nhất tháng 10-2004) đúng ba tháng, chỉ vì phát biểu không “giống” quan điểm của Chủ tịch hội. Và hậu quả là 30% tiền lương lẽ ra nhà thơ LC đương nhiên phải nhận ấy đã vĩnh viễn chia tay người đã suốt cuộc đời cống hiến cho sự nghiệp văn học nghệ thuật (ông không đủ thời gian để chuyển về địa phương làm thủ tục tăng lương theo diện về hưu). Riêng tác giả Nguyễn Trung Nguyên, trong một cuộc họp đã dám “vuốt râu hùm” khi phát biểu: “Ông Tô Hoàng Vũ không xứng đáng và không đủ khả năng làm Tổng biên tập Tạp chí Văn nghệ…”. Và kết quả là Tạp chí VN này vừa kém về nội dung, vừa yếu về hình thức.
Theo qui chế, chủ tịch Hội VHNT sẽ đương nhiên là trưởng ban tổ chức các cuộc thi văn học nghệ thuật do địa phương mình tổ chức. Sự can thiệp một cách “thô bạo” của “quyền tổ chức” vào các nguyên tắc của một cuộc “thi thố tài năng” đã khiến các cuộc thi do TP. Cần Thơ đăng cai ngày càng mất uy tín trong khu vực (cuộc thi truyện ngắn ĐBSCL do Cần Thơ đăng cai chỉ có 40 tác phẩm; còn cuộc thi bút ký văn học 2006 vừa qua, chỉ có 37 tác phẩm của anh em hội viên của Cần Thơ, người ngoài không thấy).
Để hiểu rõ tường tận hơn mọi việc, xin hãy quay lại thời điểm cuộc thi “Truyện ngắn - Bút ký TP. Cần Thơ năm 2002”, hai nhà văn chấm chung khảo là Lê Văn Thảo và Trần Thanh Giao. Kết quả sau thời gian đọc, thẩm định tác phẩm hai ông thống nhất giải Nhất thuộc về truyện ngắn của một tác giả ở Nha Trang; giải Nhì có bút ký “Tôi chạy xe ôm” của tác giả Nguyễn Trung Nguyên và một tác giả khác. Sau khi kết quả nầy về tới Cần Thơ, nhà văn Khai Phong “hồn nhiên” thông báo tin mừng cho các anh em được giải (chưa có thông báo chính thức bằng văn bản). Thế nhưng, sau đó mọi chuyện lại diễn biến hoàn toàn khác. Ngày phát giải đình lại, các thứ tự xếp giải theo ban giám khảo hoàn toàn bị đảo lộn. Nhà văn Khai Phong bị kiểm điểm. Tác phẩm “Tôi chạy xe ôm” của Nguyễn Trung Nguyên bị hạ xuống giải Khuyến khích. Trước hôm trao giải một ngày, nhà văn Trần Thanh Giao đã nói với tác giả Trung Nguyên: “Với ban chung khảo, “Tôi chạy xe ôm” hoàn toàn xứng đáng giải Nhì, nhưng người ta tổ chức có tiền và có quyền…”. Nhiều năm qua, không riêng gì tác giả Trung Nguyên mà còn nhiều người viết văn khác ở TP. Cần Thơ rất bức xúc về vấn đề nầy. Đã vậy, một thành viên của ban tổ chức còn hùng hồn phát biểu: “Giám khảo chỉ là người làm mướn cho mình, việc sắp xếp thứ hạng do ban tổ chức quyết định…”.
Quay lại cuộc thi Bút ký văn học TP. Cần Thơ năm 2006 nầy. Thật tình mà nói sự đáng trách không nằm ở các tác giả (dù rằng anh Nguyễn Trung Nguyên cũng có lỗi trong việc mượn tên, mượn người). Mà ban tổ chức cuộc thi - Hội VHNT TP. Cần Thơ có dám nhìn thẳng vào sự thật, kiểm điểm một cách nghiêm túc và thật sự cầu thị mọi yếu kém trong nhiều năm qua từ: sự hạn chế trong cách nhìn nhận đánh giá tác phẩm (hay còn một lý do gì khác nữa?) của ban sơ khảo (trong cuộc thi nầy tác giả Nguyễn Trung Nguyên gởi dự thi hai bài, bài thứ nhất “Người đàn bà viết tiểu thuyết” ký tên Nguyễn Trung Nguyên đã bị loại từ vòng sơ khảo, nhưng sau đó chính nhà văn Lê Đình Bích lại nói đây là một bài bút ký rất hay, ông đã photo lại để dạy cho học trò - nhà văn Lê Đình Bích hiện là giảng viên khoa Văn, trường Đại học Cần Thơ?!); thiếu sự tôn trọng cần thiết quyết định của ban chung khảo (là những nhà văn, nhà thơ nổi tiếng); tránh lập lại sự can thiệp một cách cảm tính của ban tổ chức vào các cuộc thi nói chung… có như vậy mới hy vọng Hội Nhà văn TP. Cần Thơ - Liên hiệp các Hội VHNT TP. Cần Thơ trong tương lai, khởi sắc xứng đáng với tên gọi của nó.
UỐNG RƯỢU Ở PHONG ĐIỀN

* Kính tặng Anh Lượng - Bí thư xã Trường Long anh hùng

Về Phong Điền rượu cụng liên miên
Quan lính có - phó thường dân cũng có
Chiếu nhậu đơn sơ, nào cùng sà xuống
Lớn bé, trẻ già rôm rả chuyện đời

Hồi đó, nơi nầy! Lộ Vòng cung chớ gì!
Vùng oanh kích tự do bom thù đổ xuống
Nhà thờ Ông Hào lời cầu kinh tắc nghẹn
Thánh ca buồn trên những xác người

Một trăm phần trăm! Tôi cũng biết rồi!
Chuyện điện đóm - chuyện người dân dùng nước sạch
Con gái miệt nầy xinh tươi đáo để
Hát karaoké giọng thiệt mượt mà

Khoan, từ từ! Cho gắp miếng mồi!
Anh khỏi báo cáo để tôi đoán thử
Hộ đói. Hết! hộ nghèo. Còn chút đỉnh!
Cứ tà tà ăn chắc mặc bền

Khiêm tốn làm gì cứ nói thật tình
Thu nhập đầu người xem xem đô thị
Mới hồi nãy, có bác nông dân thứ thiệt
Bấm a lô di động rất sành

Phong và Điền. Ủa! nghĩa là gì?
Thôi nói đại: "Phong là gió và Điền là ruộng"
Ra ruộng hứng gió say cở nào cũng tỉnh
Hoa mắt luôn trước đồng lúa bạt ngàn

Cụng cái nữa coi! Tạm biệt Phong Điền!
Về ngoài ấy chắc khó quên mấy bạn
Đất lành hay không? Hạ hồi phân giải
Mai mốt nầy… tình cứ trải mênh mang.

NỖI ĐAU TRÊN NHỊP CẦU THẾ KỶ


Mẹ chẳng dám nhìn lên chiếc bảng ghi tên
Danh sách những người chẳng may thiệt mạng
Sáng nay, khi khoác áo lên vai nó còn ngoái đầu lại bảo:
“Lãnh lương tháng nầy con lợp kín mái nhà…”

Xóm nghèo Bồ Đề vành tang trắng giăng ngang
Có cô gái trẻ lấy chồng chưa tròn tháng
Mùi mồ hôi công nhân lẫn mùi khét nắng
Vừa kịp quen hơi đã vội mất chồng!

Có đứa bé lên ba, tiếng bập bẹ chưa tròn
Chẳng biết vì sao mẹ mình khóc ngất
Hồi tối cha chơi trò cút bắt
Đã nghỉ từ lâu sao mãi chưa về?!

Người đồng bằng hạnh phúc cũng nhiêu khê
Bờ chưa kịp nối, nỗi đau ào đến
Cứ tưởng sẽ ghi dấu phèn lên nhịp cầu thế kỷ
Ngờ đâu cả nỗi kinh hoàng

Cả nước sẻ chia điều bất hạnh nầy
Bác lái đò tải thương, cô sinh viên hiến máu
Xin nhận hết những tấm lòng thơm thảo
Nhịp cầu vô hình nối những bàn tay

Cầu gãy hôm nay, mai lại dựng xây
Cô bé mồ côi lớn lên, vu quy về nhà chồng qua cầu dừng lại
Thả xuống dòng sông đóa hoa cùng lời nhắn gởi:
“Cha nằm xuống nơi nầy con mãi không quên!”

(Một ngày sau sự cố sập nhịp dẫn cầu Cần Thơ 27-9-2007)




LỚP HỌC HAI NGƯỜI


Thằng Tâm vừa đúng 18 tuổi và không biết một chữ nhứt một. Tôi phát hiện điều nầy trong đợt thăm nuôi vừa rồi. Cả phòng D1 chỉ vỏn vẹn bốn người với sáu mét vuông, bao gồm cả chổ ngủ, hầm bô, bồn nước… nên tất cả đều đồng ý chung mâm, có gì ăn nấy. Nếu so với dãy A và C phía bên kia, thì D1 đúng là thiên đường trong cái trại tạm giam nầy. Chỉ một lớp cửa sắt, lại gần nhà bếp, thi thoảng ghé mắt qua lỗ đưa cơm thấy mấy người ở phòng lao động tất bật vo gạo, làm cá cũng vui. Hóa ra, ở đâu cũng có sự phân định rạch ròi. Điều nầy phải đợi đến khi cả bốn đứa đều nhận được cáo trạng, tôi mới suy ra. Dãy D là nơi tạm giữ những người mới phạm tội lần đầu, hoặc do sơ ý mà phạm tội. Nói chung không phải dạng ở tù chuyên nghiệp, có thể cải tạo được nói theo thuật ngữ của những nhà giáo dục học.
Lần đầu tiên nếm mùi tù tội nhưng xem ra thằng Tâm không có gì là sợ hãi. Khi mới chuyển qua phòng nầy, thấy một thằng oắt con đúng nghĩa, trần truồng hết sức tự nhiên, miệng ong ỏng ca mười năm không gặp tưởng tình đã cũ. Tôi đã ghét hết sức ghét! Nhưng sau đôi ba tháng chung đụng trong khoảng không gian chật chội nầy, tôi lại thấy thương nó nhất phòng. Thì ra, khi mở miệng là chưởi thề, hở một chút là cây hàng 5 tấc, 6 tấc cũng chỉ là một kiểu ham làm người lớn mới vừa học được trong tù. Nó làm người ta thấy tức cười hơn là sợ hải.
Sự phân định giàu nghèo sẽ phơi bày hết bộ mặt nhẫn tâm của nó trong môi trường tù tội và bệnh viện, nơi mà mọi vỏ bọc cảnh giác không còn. Một gương mặt hớn hở khi giỏ thăm nuôi đầy ắp thức ăn đắt tiền. Và kia, ánh mắt lặng lẽ cuối xuống với túm đôi ba ổ bánh mì yểu xìu, khô khốc. Má thằng Tâm mỗi tháng mới vào thăm nó một lần. Sáng nầy, vừa mở mắt nó đã nói với tôi bữa nay má em vô. Và khi nó xách lệch vai cái giỏ nặng trĩu bước vào phòng, sau tiếng rít ken két của cánh cửa sắt, ba đứa tôi đã ồ lên vô mánh. Thằng Tiếu lanh chanh đón lấy giỏ đồ, cầm mảnh giấy ghi tên tuổi người thân và liệt kê những món đồ gởi kèm đưa thằng Tâm nói: mầy đọc lên cho tao kiểm tra coi đủ không. Trái với sự háo hức khi ra nhà thăm nuôi, nó buông một câu xuôi xị: kệ nó. Cái thằng! Tiếu cằn nhằn rồi cầm mảnh giấy lẩm nhẩm đọc: Ủa! Người gởi chị Nguyễn Thị Đào, không phải má mầy vô sao Tâm? Đang cởi quần áo, thằng Tâm quay qua như cái lò xo. Cái gì? Chị Đào nào! Chết mẹ! Lộn giỏ rồi. Nói xong nó nhào tới cửa chỏ miệng ra hét lớn: Cán bộ ơi! Cán bộ ơi! Lộn giỏ rồi…
Tối hôm đó, nằm kế tôi thằng Tâm cứ trằn trọc không yên. Hai đứa kia đã ngáy khò khò. Sực nhớ chuyện hồi sáng, tôi hỏi nó khi nhận giỏ sao mầy không đọc tên người gởi. Phải hồi lâu sau nó mới trả lời: em có biết chữ đâu mà đọc! Rồi nó kể cho tôi nghe. Thằng Tâm không có cha. Nó được sinh ra và đương nhiên nhập hộ khẩu vào xóm rác. Một khu xóm lụp xụp nằm ven quốc lộ, gần bãi rác thành phố. Khi vừa biết đi, biết chạy thì chổ nó lao đầu vào cũng là bãi rác, nơi hàng ngày mấy chiếc xe đầy ắp thứ đồ phế thải của con người đổ xuống. Má nó tiệt không nhắc một tiếng về người đàn ông đã kết hợp với mình, dù muốn hay không muốn; dù hân hoan hay đớn đau thì cũng đã cho ra đời một sinh linh là nó. Lớn lên một chút, đôi khi nó tự hỏi: ba mình là ai hén ta?! Giống ông nầy hay ông kia rồi ngơ ngẩn nhìn đống rác bốc mùi…
Nhiều bữa, chiều xuống vác bao “chiến lợi phẩm” về nhà. Nó thấy hoài tụi học sinh cỡ tuổi nó, chạy xe đạp ngoài lộ, cười giỡn vang rân. Tụi nó đứa nào cũng đeo một cái khăn màu đỏ trên cổ, chẳng biết để làm gì! Nó khoái được như vậy lắm, nhưng thổ lộ với má thì nó không dám. Mà nó cũng không có thời gian đâu mà đi học. Phải canh xe về ngoài bãi, mà phải công nhận nó có “khiếu” móc rác hay sao ấy. Cả một xe đổ ụp xuống hàng bao nhiêu tấn rác, cả một đám mười mấy con người già, trẻ lao vào. Vậy mà, lúc nào nó cũng kiếm được nhiều hơn những người khác. Có lần, kể cho tôi nghe mà nó còn rùng mình. Em vớ được một bọc vải nằng nặng, mở ra là một đứa bé mới sinh đã chết cứng tự hồi nào. Bà ngoại – là người đàn bà già nhất xóm - tụi nhỏ quen miệng gọi là bà ngoại. Mang ra chôn ở rìa bãi rác, cũng nhang khói đàng hoàng mấy ngày.
Thằng Tâm mê đi xe đạp lắm, nó muốn được một lần mặc áo trắng, không có khăn quàng cũng được, vừa chạy xe vừa cười giỡn như tụi nhỏ mỗi chiều. Má nó hứa: Ừ! Con ráng kiếm tiền dành dụm. Khi nào biết chạy xe, má mua cho một chiếc. Mọi việc chưa đâu vào đâu, giấc mơ đeo đuổi nó suốt một thời tuổi thơ nhọc nhằn vẫn chưa thực hiện được, thì nó lại vào đây. Cái thằng, bộ nó tưởng luật pháp có thể xin tì như chơi nhà chòi hay sao? Bữa đó, ra thị trấn mua đồ cho má. Trưa nắng gắt váng cả đầu. Không biết xe đạp của ai mà để khơi khơi, chẳng khóa mà cũng chẳng ai coi chừng. Ma xui quỷ khiến không biết, nó bước tới dắt đi tỉnh bơ. Đến khi nghe tiếng hô hoán: Ăn cắp xe! ăn cắp xe! Nó còn chưa biết người ta đang nói mình. Bị đòn thì đành rồi. Cán bộ điều tra hỏi: Sao lấy xe mà không chạy? Nó nói: Con không biết chạy. Vậy mầy lấy làm gì? Dạ! Con tính lấy về tập chạy… cán bộ kêu trời rồi kết luận điều tra cái rụp.
Tôi tuyên bố với cả phòng: Tao sẽ dạy thằng Tâm học. Ít ra, nó cũng phải đọc được tên má nó khi nhận đồ thăm nuôi. Trong thời gian chờ ra tòa chỉ có ăn và ngủ, nên khi tôi bày chuyện chẳng thằng nào phản đối. Nhưng, lại nhưng! Dạy bằng cách nào? Ở trại tạm giam, tuyệt đối cấm sử dụng giấy viết vì sợ thông cung. Viết lên tường ư? Cán bộ kiểm tra là “bành thân”! Suy đi, tính lại tôi sực nhớ thằng nào vô đây mà không có vài tờ giấy tạm giữ, rồi gia hạn tạm giữ, rồi tạm giam đã hết hạn. Tôi bảo ba đứa lục giỏ đưa tôi mấy tờ lệnh. Mỗi tờ xé làm 8 mảnh, chỉ 4 tờ thôi đã đủ để làm một bộ mẫu tự. Xong chuyện giấy, lại đến chuyện mực viết. Cái nầy phải nhờ Tuấn đen, cái thằng tháo vát nhất phòng. Nó lui cui xé mấy cái bọc hai quay làm hỏa tốc đốt lên rồi lấy cái bo (thau mủ) bể hứng khói. Cái gì chứ khói hỏa tốc thì khỏi nói, đen kịn, đầy nhóc. Chỉ một lúc là đủ, Tuấn cạo khói vào một cái chén, thêm chút nước quậy lên sền sệt, đâu thua gì mực tàu của mấy ông thầy nho. Còn viết thì dễ kiếm rồi, chiều khi cán bộ mở cửa đổ rác Tuấn nhanh tay nhặt một que tre, tước cho vừa tay, đập dập dập một đầu là xong.
Cuối cùng tôi cũng có một bộ mẫu tự đầy đủ cả chữ lẫn số. Hàng ngày, tôi xếp từng con chữ ra dạy Tâm tập đọc, rồi ráp vần xuôi, vần ngược. Cái thằng coi vậy mà sáng dạ lạ lùng, thêm nữa thằng Tuấn đen, rồi thằng Tiếu thấy Tâm ham học cũng bày đặt sắp chữ nầy, chữ nọ ra đố. Nhờ đó thằng Tâm càng mau biết. Nhiều bữa, hai “thầy – trò” nằm bò ra mà đánh vần. Cái thằng, đọc được hứng chí hay sao mà cứ quát miệng lên gào: m..a..sắc..má! bờ..a..ba! làm cán bộ quản giáo tưởng có chuyện gì, bước đến cửa, đứng nghe một hồi rồi bỏ đi.
Cái mà thằng Tâm lần đầu tiên đọc được suôn sẻ lại chính là tờ giấy triệu tập nó ra tòa. Tôi biết giờ chia tay của chúng tôi sắp đến, mỗi đứa sẽ đi một đường, cho trọn cuộc hành trình tù tội của mình. Nhiều đêm, nằm bên nhau tôi khuyên Tâm sau nầy về đời cố gắng học một nghề gì đó. Lớn rồi, cứ sống dựa vào của bỏ đi của thiên hạ liệu có thành người hay không?! Khi tôi xách bọc quần áo bước ra khỏi phòng D1, cũng là lúc tôi và thằng Tâm chia tay chẳng biết khi nào gặp lại.



oOo

Bẵng đi đâu cũng tám, chín năm. Khi mà chuyện tù tội đã trở thành sợi khói mỏng manh trong ký ức thì tôi gặp lại thằng Tâm. Sáng đó, vừa trờ xe tới một ngã tư thì kẹt đèn đỏ, đang lừng khừng nửa muốn đạp thắng, nửa muốn rồ ga thì có tiếng gọi tên tôi, giọng mừng rỡ. Quay qua, một khuôn mặt rất quen nhưng tôi không nhớ đã gặp ở đâu, phía trước xe lại có một bé gái khoảng 5, 6 tuổi. Gương mặt sáng ngời xinh xắn, hai cái bím tóc cột nơ màu hồng, long lanh như hai giọt sương buổi sáng. Anh không nhớ em sao? Thằng Tâm D1 nè! Anh đợi em một chút, em cho con nhỏ đến trường rồi anh em mình kiếm chổ uống cà phê tâm sự.
Chấp nối những lời kể rời rạc của Tâm sau vài lần cà phê, cà pháo rồi lai rai thịt cầy, thịt chuột tôi cũng hình dung được cuộc đời của nó sau ngày ra tù. Xách bọc đồ về đến xóm rác, câu đầu tiên thằng Tâm nói với má nó là: Con biết đọc rồi! Con muốn học nghề chớ không móc rác nửa đâu! Chuyện thằng Tâm ở tù mà biết đọc chữ khó tin giống như cái xóm lụp xụp đó hóa thành nhà lầu. Phải đến khi nó cầm tờ báo lên đọc ro ro, mọi người mới tròn mắt gật đầu. Má nó coi bộ suy nghĩ lung lắm. Rồi chẳng biết cậy cục sao đó, đâu tháng sau thằng Tâm được theo học nghề thí công tại một cửa hàng sửa chữa xe gắn máy trong thành phố. Thấy nó sáng dạ lại chịu khó, chỉ gần năm trời ông chủ cho nó ăn ngủ luôn tại chổ, còn ưu tiên cho nó nhận bơm, vá xe đạp lấy tiền bỏ túi.
Xéo xéo chổ nó làm là một trung tâm dạy nghề. Mấy đứa con gái học may trong đó ghé chổ nó mượn ống bơm hoài. Đồ hà tiện! Có năm trăm cũng tiếc. Chỉ có một đứa duy nhất khi xe xẹp bánh, không mượn mà kêu nó bơm rồi móc năm trăm ra đưa. Đồ làm phách! Đã vậy ta đây cũng không thèm, năm trăm mà nhằm nhò gì! Để đó đủ trăm ngàn lấy luôn. Bữa nọ, đã sắp đến giờ trung tâm đóng cửa, con bé “làm phách” hớt hơ, hớt hải dắt xe tới nói: Anh coi giùm em cái bánh xe, cho em gởi luôn nghe, tới giờ học rồi! Nói xong nó tọt vô trỏng chẳng cần biết thằng Tâm có đồng ý hay không. Thiệt tình! Có cái “chân đi” mà cũng không “chăm sóc thuốc thang” tử tế. Tâm lầm bầm trong miệng rồi lui cui lấy đồ nghề mở bánh xe. Trời ạ! Cái ruột vá chằng, vá đụp còn hơn trưởng lão tám túi. Kiểu nầy chỉ có thay ruột mới chớ vá nỗi gì! Thằng Tâm nói với tôi: Chẳng biết lúc đó em nghĩ gì mà móc tiền túi ra mua cái ruột xe mới thay cho nó. Đã vậy, lúc lấy xe nó hỏi bao nhiêu tiền, em còn nói trớ đi xì vòi, sửa chút xíu tiền bạc gì. Để đó đủ trăm ngàn lấy luôn.
Hai ngày sau con nhỏ ghé lại, không bơm, sửa gì cả mà đưa em cái bọc nhỏ. Mĩm cười rồi chạy vô trường. Mở ra, một gói Héro và mảnh giấy ghi mấy chữ: Em cám ơn anh nhiều lắm! May phước là em biết đọc, không thì chẳng biết ra sao! Tụi em quen nhau từ đó. Suốt mấy năm trời thằng Tâm dấu biệt chuyện nó lớn lên ở xóm rác, chuyện tù tội và cả chuyện chỉ đọc được, chớ viết thì khó còn hơn lên trời! Mỗi lần nhận thư, đọc xong nó trả lời bằng miệng luôn, viện cớ sửa xe tay chân dầu mỡ, cầm mỏ lết quen rồi, viết thư lọng cọng.
Cũng trắc trở trăm bề nhưng rồi tụi em cũng thành vợ thành chồng. Nhờ hai đứa cắt củm dành dụm, rồi người nầy người nọ giúp đỡ, tụi em mua được miếng đất nhỏ cất nhà, em sửa xe, vợ em may đồ loanh quanh trong xóm cũng sống được. Thiệt đúng là cây kim trong bọc lâu ngày cũng lòi ra. Khi đó vợ em có bầu độ ba bốn tháng, một buổi trưa nọ vắng khách em đang thiu thiu ngủ thì nghe tiếng gọi: Anh ơi! Ra ghi giùm em… thì ra có hai bà khách đến may đồ, họ đang gấp gáp chuyện gì đó mà hối thúc luôn miệng. Thằng Tâm vừa bước ra, thì vợ đã nhét vào tay cuốn sổ và cây viết. Tay đo thoăn thoắt, miệng thì: Ngang… tay… nách… Em đứng đực người ra, lúng túng – thằng Tâm nhớ lại – cây viết trong tay nặng chịt như núi Ngũ hành sơn đè Tề thiên. Lóng cóng chẳng biết làm gì, em bỏ đại cây viết, cuốn sổ lên bàn, tay vớ cái nón, chân bước ra cửa, miệng nói: Anh đi công chuyện! Tiếng một bà khách lầm bầm: Chồng con gì! Thiệt tình, nhờ chút xíu cũng không được! Thôi, đưa đây tui ghi cho… Đi tuốt ra quán cà phê bờ sông, em ngồi đó suốt cả buổi chiều, suy tới tính lui mà buồn. Không phải em buồn vì mình không biết viết chữ, cái em buồn là không giúp được vợ mình trong một chuyện nhỏ như vậy! Sau nầy những chuyện lớn hơn sẽ ra sao?!
Khi thằng Tâm quay về nhà thì vợ nó đã chuẩn bị cơm nước xong xuôi. Tuy vợ không nói gì, nhưng nó biết giữa hai vợ chồng sẽ có một chuyện gì đó. Đến lúc vào mùng ngủ con vợ nó mới thủ thỉ: Anh không biết viết phải không? Trời lạnh mà em muốn đổ mồ hôi hột – thằng Tâm nói – nột quá, cuối cùng em đành nói thiệt. Em kể cho nó nghe hết mọi chuyện mà em còn dấu diếm. Từ chuyện bãi rác, chuyện gặp anh trong tù, chuyện được anh dạy đọc và cả cái câu anh khuyên em kiếm một nghề gì đó… Con vợ em không nói gì cả mà ôm em khóc ròng. Mấy bữa sau nó nói: Anh phải tập viết chữ, để sau nầy còn viết tên con mình khi nó đến trường. Rồi nó kiếm ở đâu không biết lôi về nào mấy cuốn tập đồ, tập viết đủ cả… Tối xuống, đóng cửa, nó cầm tay em tập viết từng chữ, cứ như đang tập cho em bé. Nó còn kể cho em nghe chuyện bà gì đó dạy chồng hồi xưa, rồi bắt buộc mỗi ngày em phải viết xong một trang mới vô ngủ.
Bây giờ thì em viết được rồi, tuy không đẹp như mấy người ăn học giỏi nhưng con vợ em vui lắm. Ngày con em đi học, mọi việc đều do vợ em lo liệu nhưng giấy nhãn bao tập nó nói em muốn anh ghi cho con. Không hiểu sao khi viết xong tên con bé lên tờ giấy nhãn, em cứ rưng rưng nước mắt. À! Còn chuyện nầy nữa. Con em nó học giỏi lắm, ngày nào về cũng khoe con tập viết được mười điểm. Bữa nọ, chẳng biết moi móc thế nào nó cầm ngay quyển tập viết của em ra hỏi: Ba ơi! Cuốn tập viết nầy của ai vậy? Nhìn là phớt qua biết của ai rồi, em đáp đại: Ờ! Của ba học hồi nhỏ đó con. Nghe vậy, con bé lật ra xem rất chăm chú rồi bình luận. Hồi nhỏ ba viết chữ xấu hơn con! Em chẳng biết nên khóc hay cười. Đã vậy, nghiên cứu một hồi nó còn phát hiện: Ba ơi! Sao cô giáo của ba không cho điểm? Đến đây thì em ngọng thật sự, gương mặt em lúc đó chắc giống y như hồi con vợ em nhờ ghi số đo cho khách. Em vả lả chắc tại cô quên. Con bé vẫn chưa buông tha: Sao cô lại quên vậy ba? Đến đây thì em thật sự đầu hàng, em “bán cái” cho vợ: Cái đó thì con phải hỏi má con mới biết! Con bé đang ngồi trong lòng em tuột cái rột xuống đất, cầm quyển tập chạy ra nhà sau: Má ơi! Sao cô giáo của ba quên cho điểm… Em vớ cái nón, nói vọng ra sau: Anh đi công chuyện! Rồi em trở lại đúng cái quán cà phê bờ sông, cũng đúng bàn đó, kêu cái đen ngồi nhâm nhi. Lần nầy em không buồn, mà vui lắm. Niềm vui mênh mông như con nước đang tràn bờ, cũng chẳng biết vì lẽ gì!
Nghe câu chuyện Tâm kể, có lúc tôi bật cười, cũng có khi nghe cay cay sóng mũi.
Chắc tại mình mừng cho hạnh phúc của thằng bạn tù ngày xưa!




TỰ SỰ


(Giải KK cuộc thi VHNT tỉnh Hậu Giang năm 2005)

Cha đi lính khi con chưa sinh ra
Và mẹ là cô gái mà cha chưa được gặp
Thuở ấy trong ba lô cha ngược xuôi lép kẹp
Chỉ có dăm tờ giấy mỏng làm thơ

Mỗi lần trở về bà nội mong chờ
Cứ nhắc nhở: “mầy già rồi đấy”
Cha thả nụ cười bay theo gió
Con chưa thỏa chí tang bồng

Chiến trận tàn cha gặp mẹ bến sông
Những chuyến đò ngang dọc
Thân thể cha hằn bao vết đạn
Trong ba lô có thêm cái chết bạn bè

Mẹ con dạo ấy xõa tóc thề
Thương người lính nghìn lần khốn khó
Gia tài chỉ có những câu thơ
Không đủ làm tả cho con dăm bận

Mẹ gặp cha lại gặp thêm lận đận
Quên mộng mơ lo chuyện gạo tiền
Cha buông cây súng lại cầm cây viết
Nghề nào chiếc bóng cũng che nghiêng

Chiếc ba lô cha cất giữ riêng
Nay chứa thêm tiếng con bập bẹ
Thử đeo lên vai – sao mà nặng lạ
Hóa ra đầy ắp nghĩa tình

Người lính năm xưa không quên bạn mình
Càng nhớ những người đang sống
Vậy đó con! Giàu nghèo không trọng
Bằng lẽ đời biết sống cho nhau

Nay cha đi đâu cũng muốn về mau
Nơi có mẹ và con đợi cửa
Cái tang bồng xưa hóa ra ngọn lửa
Ấm nồng sưởi cả ba người.
BÀI CHÍNH TẢ ĐẦU TIÊN



Hai mươi tuổi – em lần đầu nghe chính tả
Chữ “sống” mấy lần viết chẳng xong
Tuổi thầy – tuổi em vừa suýt soát
Em viết chưa thẳng hàng – thầy chẳng dám cầm tay!

Đôi mắt em vẫn còn nét kẻ mày
Chợt mở lớn khi thầy giảng về quê hương xứ sở
Có cánh đồng xanh, có cánh hoa dâm bụt nở
Có đêm trăng thanh ngọt giọng mẹ ru hời

Có cô bé lên năm chiều đứng ngóng trời
Mơ một cánh buồm như trong chuyện kể
Tuổi thơ em đi qua nhanh quá đổi
Vội tan mau như bọt bia đổ đêm nào

Tuổi thơ em chưa một buổi đến trường
Cái em học đầu tiên là gắp mồi – khui rượu
Là những câu nói lã lơi – đơi đã
Nụ hôn đầu đời em chẳng nhớ trao ai!

Học lại đi em – từng tiếng đọc bài
Vần xuôi – vần ngược, đâu khó bằng giả chồng – giả vợ
Thầy giáo dạy em – chưa học qua trường sư phạm
Lòng vẫn vui vì em biết được hai chữ thiện lương

Hai mươi tuổi rồi – em mới học cửu chương
Một với một là hai – điều nầy ai cũng hiểu
Như con người có một quê hương
và một lần được sống
Em nhớ đừng quên để thật sự làm người

Bài chính tả hôm nay thầy đọc chẳng dài
Mà có quá nhiều chữ khó
Em nói với bạn:
“Chẳng biết điểm mình là mấy?”
Nổi lo dễ thương của cô bé học trò


VỌNG CỔ

ĐIỂM DANH ĐỒNG ĐỘI

oOo

* NGY UYÊN


Nói lối:


Năm hàng dọc – những mộ bia đứng thẳng
Một hàng ngang – kia lau trắng cuối trời
Bao nhiêu năm nay điểm danh lần nữa
Những đứa, những thằng biền biệt xa quê

VỌNG CỔ

I. Chiều nay Trường Sơn đại ngàn lộng gió, tao trở lại nơi đây tìm đồng đội cũ. Mấy đứa ngông nghênh, mấy thằng lính trẻ, tiếng súng đã dứt từ lâu vẫn mãi không… về. Nhớ buổi tiễn đưa quyết giữ vẹn câu thề. Da ngựa bọc thây “nhân gian bất kiến…”, tao nhớ tụi mầy như nhớ giai nhân. “Mắt trừng gởi mộng qua biên giới. Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm” (*) . Đời lính mấy thằng sấp ngữa làm thơ, ba lô binh nhì ôm cả hồn danh tướng.

II. Mỗi đứa một quê, mỗi thằng một tánh. Kinh Bắc – Cần Thơ hội tụ lại nơi nầy. Mãi mùa xanh, mãi hai mươi tuổi sum vầy. Tụi bây nhớ không ngày xưa nơi đây bao cung đường trụi lá, máu xương đắp bồi nay rợp màu xanh. Cũng cánh rừng nầy thằng Hiển hy sinh, thư viết cho người yêu quê nhà trên túi áo còn dang dở. Đạn giặc thù xuyên qua ngực nó, máu thấm đỏ lời yêu thương, loang nhòe cả nụ hôn.

Nói lối:


Hàng dọc – hàng ngang đồng đội điểm danh
Những nấm mồ xếp hàng ra trận
Nén nhang trắng khóc tụi mầy lần cuối
Mai gặp nhau rồi – cùng thét xung phong

VỌNG CỔ

V. Tao trở lại nơi đây tóc không còn xanh nữa, bụi thời gian thoi đưa đã phủ trắng trên… đầu. Cô láng giềng ngày xưa cũng vội bước qua cầu. Có ai còn nhớ người đi không trở lại, hay chỉ mắt mẹ quê nhà mòn mỏi chờ mong. Đâu hết rồi những: mi – tớ – chi – mô, về đây hết đủ ba miền góp mặt. Về đây uống cùng tao chung rượu nhạt, như ngày xưa nhín nhút miếng rau rừng.

VI. Ngày ấy chúng mình hồn nhiên bước vào cuộc chiến, giương tay súng giữ gìn màu xanh cho đất mẹ, cho hạnh phúc mọi nhà đơm hoa kết trái, có nằm xuống nơi nào cũng gọi quê hương. Chiều nay ghé lại nghĩa trang Trường Sơn điểm danh đồng đội; thắp nén nhang thơm viếng hồn tử sĩ; thằng mất tuổi tên, đứa không còn xác; nhớ rủ nhau về đây gặp lại bạn… già.

Trường Sơn lộng gió đại ngàn
Đâu hồn lính trẻ – đâu hàng lau xanh
Hoa đời thắm đỏ trên cành
Máu xương góp lại hóa thành linh thiêng.

(*) thơ Quang Dũng


BÚT KÝ


www.rfi.fr




a2mk.informe.com/.../


TÔI CHẠY XE ÔM


Năm 1932, khi viết thiên phóng sự “Tôi kéo xe” đăng trên “Hà Thành Ngọ báo”, tác giả Tam Lang đã nói rỏ hai ước vọng của mình: “chế độ “cai xe” không còn nữa; chiếc xe hai bánh “người kéo người” sẽ được chiếc xe ba bánh “người đạp người” thay thế, để người phu xe không còn bị “cai xe” bốc lột, đồng thời lấy lại được phẩm cách con người, khi họ không còn tự ti mặc cảm thấy xã hội coi khinh, coi rẻ họ như thân trâu ngựa.”
Đúng 70 năm sau, tức năm 2002 nầy, khi cầm hai chiếc ghi đông xe hòa vào dòng người bon chen kiếm sống, tôi mới thấy rằng mặc dù thời gian trôi qua đã dài bằng cả một đời người nhưng chuyện kéo xe của Tam Lang ngày xưa và chuyện tôi chạy xe ôm bây giờ tuy đã khác nhau hoàn toàn về hình thức nhưng cơ bản vẫn giống nhau trong nỗi nhọc nhằn kiếm sống lẫn những mánh lới nghề nghiệp, nếu muốn mình vượt hơn người khác dù chỉ là một “cuốc” xe ôm.
Rời cơ quan Nhà nước, cả một thời gian dài tôi lâm vào tình trạng thất nghiệp. Chuyện cơm, áo, gạo, tiền... trở thành một gánh nặng quá sức đối với vợ tôi. Sau nhiều đêm thao thức, trăn trở rồi bàn đi, tán lại với bà xã, tôi trở thành một thành viên của đội quân xe ôm vốn đã không kém phần đông đảo ở thành phố Cần Thơ nầy.
Sau khi rà soát lại máy móc, đèn còi chiếc cúp 81, thứ tài sản có giá trị nhất của gia đình và cũng là vật kỷ niệm của thời gian gần 10 năm trời, sáng vác ô đi, chiều vác ô về. Tôi vào cuộc sau khi bà xã đã cẩn thận chọn ngày đại cát. Đổ 10 ngàn đồng xăng, thủ thêm trong túi 10 ngàn vợ đưa làm vốn, tôi hăm hở vào cuộc. Nội ô thành phố Cần Thơ không lớn nên quanh quẩn một hồi tôi đã về chốn cũ. Đúng như người ta thường nói cái gì buổi đầu thường làm ta bỡ ngỡ, tôi cũng lâm vào tình cảnh ấy nhưng sự bỡ ngỡ nầy mới khó chịu làm sao. Tôi sợ người quen nhận ra mình, sợ khi mở miệng ra mời không đúng người đang cần đi xe, nói chung là sợ đủ thứ... cho nên suốt cả một buổi sáng chạy gần hết bình xăng, tôi trở về nhà với 7 ngàn còn lại, sau khi đã uống một ly cà phê đen và mua gói thuốc “dỏm” 2 ngàn. Nói chung là lỗ vốn nặng. Đến bây giờ tôi mới thấy cái sĩ diện người làm việc Nhà nước đã hại mình. Sau nầy, khi đã “dầu dãi phong trần” tôi mới thấy rằng thật ra việc chạy xe ôm vẫn còn lương thiện gấp nhiều lần một số người “mày râu nhẳn nhụi, áo quần bảnh bao”, mang tiếng là nô bộc cho dân chứ thật ra chỉ sách nhiễu, gây khó khăn để mong có được chút của đút lót. Nhưng đó là chuyện của nhiều “hồi” sau nữa, còn bây giờ tôi vẫn là kẽ nhập môn khốn khổ, khốn nạn của kiếp “người đèo người”.
Lần đầu ra quân thất trận, suốt đêm ấy tôi trằn trọc rất nhiều. Chẳng lẻ mình chịu thua? Còn vợ tôi thì động viên kèm theo lời mách nước: “Sao ông không đến mấy bến xe, bến tàu rồi bến phà hoặc cổng bệnh viện mà đón khách, chạy vòng vòng chỉ tổ tốn xăng...”. Vậy mà mình không nghĩ ra! Thế là cả ngày hôm sau tôi xách xe mon men đến mấy địa điểm mà theo vợ tôi thì rất ngon ăn, để rồi nhận ra một điều không có đồng tiền lương thiện nào kiếm được một cách dễ dàng.
Trong giới xe ôm có thể tạm chia làm hai dạng: dạng chuyên nghiệp – tức là chạy xe ôm như một thứ nghề kiếm sống duy nhất, đối với dạng nầy mỗi ngày họ phải có được một số tiền nhất định nào đó để trang trải cho mọi sinh hoạt gia đình trong ngày. Từ tiền gạo, tiền thức ăn, nước mắm, tiêu hành... cho đến tiền góp. Một thứ tiền mà dân xe ôm chuyên nghiệp đa phần đều ngán sợ nó nhưng không tránh khỏi mỗi khi cái cần câu cơm dỡ chứng mà tiền dành dụm lại không có. Chính vì sự thúc bách đó nên dân chạy xe ôm chuyên nghiệp thường chọn cho mình một bến bãi ngon ăn để “cắm tài”. Ở Cần Thơ hiện nay số người chạy xe ôm có lẽ phải đến vài ngàn người nhưng trong số đó chỉ có vài chục người được xem là dân xe ôm “quý tộc”. Đó là những người thuộc đội xe ôm của bến phà Cần Thơ. Theo thông tin trên báo, hàng ngày lưu lượng hành khách qua lại ở bến phà Cần Thơ phải đến vài chục ngàn người. Trong số đó những người có nhu cầu đi xe ôm nhanh chóng về nhà để thỏa nỗi lòng trong những ngày đi xa cũng không phải là ít. Và chính họ là đối tượng của những thành viên trong đội quân xe ôm ở đây. Mỗi cuốc rời bến thấp nhất là 5.000 đồng, dù tuyến đường có ngắn hơn so với một cuốc xe bình thường khác. Mà thôi! Tiếc làm gì dăm ngàn lẻ để mình sớm gặp người thân. Do đó mỗi thành viên ở đây trong một ngày có thể bỏ túi từ 5-7 chục đến 100 ngàn cũng là chuyện “thường ngày ở huyện”, trong khi mỗi tháng họ chỉ phải đóng tiền bến bãi là 8.000 đồng. Ngon ăn như vậy cho nên bất cứ ai một khi đã xác định lấy xe ôm làm nghề kiếm sống đều muốn được vào chạy ở bến phà, ít ra là cho đến khi cầu Cần Thơ xây dựng xong nhưng nào có dễ dàng gì. Phải là người có mối quan hệ hữu cơ với những vị có trách nhiệm, rồi còn nhiều thứ nhiêu khê khác nữa mà những kẻ “A ma tơ” như tôi không dám mơ tới.
Ngoài bến phà, khu vực nội ô thành phố Cần Thơ cũng còn không ít nơi mà dân xe ôm kiếm ăn được như bến chợ, bãi đỗ xe trên đường 3 tháng 2, cổng bệnh viện Đa Khoa, bến xe mới v.v... Và tất nhiên, ở tất cả những điểm nầy đều có chung một quy luật bất thành văn là chỉ dành cho những người trong “phe” ta. Có thể đó là một nơi có đội, nhóm, danh sách, qui củ hẳn hoi như bến phà Cần Thơ nhưng cũng có thể chỉ là một kiểu “ma cũ – ma mới”, mà những ai chưa biết xớ rớ tới kiếm ăn hãy coi chừng. Và tôi, một người mới nhập môn kiếm ăn trên đường phố đã không dưới một lần “Ru ta ngậm ngùi”. Lần thứ nhất, tôi mon men xách xe xuống đậu ngoài cổng chào của bến phà hy vọng kiếm được một, hai mối mà đội xe “quý tộc” chê ít tiền không thèm chạy. Một ông khách xem chừng là dân nông thôn nếu nhìn sơ qua cách ăn mặc, trả giá 2.000 đồng cho một cuốc tới chợ Cần Thơ. Với tôi thì không lỗ tiền xăng là tốt rồi, không ngờ ông khách vừa lên xe, tôi chưa kịp đạp máy thì từ đâu một bàn tay cứng ngắt nắm cổ áo tôi giật ngược lại kèm theo tiếng quát lớn:
- Ai cho mầy xuống đây chạy mà phá giá như vậy hả? Từ đây xuống chợ 4.000, không đi thì thôi!
Hóa ra ngay cả chạy dạo không bến bãi cũng có những luật lệ riêng của nó. Lần đó tôi đành bảo ông khách xuống xe đi bộ, còn tôi thì chạy xe không về cùng trên một con đường mà nếu ở hoàn cảnh khác tôi sẽ cho ông ta quá giang không một chút ngại ngần. Lần thứ hai, tôi vừa thả khách xuống bến tàu, quay lên tới ngã tư Ngô Quyền – Lê Thánh Tôn thì một bà khách gọi lại, khi nghe tôi nói giá đi tới chợ An Thới là 5.000 đồng, bà im lặng lên xe không nói không rằng. Chưa kịp rồ ga thì bất thần một chiếc Honda 67 xuất hiện, thắng gấp ngay đầu xe tôi kèm theo tiếng nạt:
- Bỏ khách xuống! Ai cho mầy rước khách ở đây?
Miếng ăn tới miệng nhưng tôi đành nhả ra vì không muốn có chuyện lôi thôi. Thì ra trong cuộc bon chen mưu sinh kiếm sống, sự tranh giành dễ dàng đưa con người ta đi đến tận cùng của sự thô lỗ, sẵn sàng buông ra những từ ngữ thô tục nhất để dành lấy miếng ăn về phía mình. Mới ra quân mấy ngày đầu, tôi đã phải hai lần “ê răng”, nên thời gian sau đó tôi hiểu ra rằng muốn trụ được bằng cái nghề dầm mưa, dãi nắng nầy thì tốt nhất hãy xách xe chạy rong hoặc đậu đón khách ở những đoạn đường vô thưởng vô phạt.
“Nghề chơi cũng lắm công phu” mấy ông làm văn nghệ hay nói về công việc của mình như vậy. Riêng tôi, sau khi đã trở thành một thành viên thực thụ của đội quân xe ôm, lại rút ra cho mình một kết luận: “Kiếm cơm được bằng cái nghề nầy cũng công phu không kém”.
Ở chương thứ 13, với tiêu đề “Thầy tôi mổ bụng” trong tập phóng sự “Tôi kéo xe” tác giả Tam Lang đã viết: “Cái nghề cắm cổ mà chạy để kiếm lấy dăm ba xu một ngày ở góc phố, đầu đường, từ hôm ấy, tôi mới biết nó cũng có những mặt trái, mặt phải, những góc ngạnh mà con mắt người ta không thể trông – nói rõ là những khóe, những nỗi của nghề, cũng như trăm nghìn nghề khác”. Thầy của tác giả Tam Lang ở đây là nhân vật Tư S. một người đã có hơn 10 năm làm cái nghề cầm tay gỗ... – Và những điều vỡ lòng mà người thầy ấy dạy cho học trò của mình cách đây đã hơn 70 năm, mà sao đọc lại tôi vẫn thấy như là bài học dành cho mình hôm nay: “Vào ăn cao lâu, có khi người ta gọi món hàng đồng mà không dùng đũa, nhưng đi xe thì người ta mà cả, cò kè bớt từng đồng xu. Một đồng bạc có được những trăm đồng xu. Một trăm xu ném vào ngăn kéo anh khách phệ bụng không mùi gì, nhưng một xu ném vào cái nón rách người phu xe nó to không biết đâu mà kể... có ai cần lấy sĩ diện với cu-ly xe. Chỗ cần sĩ diện là các cửa hàng to, các cao lâu, rạp hát...”. Cái tâm lý ấy liệu trong những năm đầu của thiên niên kỷ mới nầy có gì khác biệt, người chạy xe ôm trong mắt nhìn của xã hội hôm nay không bị coi là cu-ly xe như ở giai đoạn xã hội Việt Nam lầm than dưới ách thống trị. Nhưng sao tôi vẫn thấy nỗi nhọc nhằn của họ dường như là một, có chăng đang hiện diện dưới một bộ mặt khác trong bối cảnh xã hội văn minh tiến bộ.
Một buổi trưa chạy lòng vòng chẳng có cuốc nào tôi tấp vào điểm sửa xe quen trước Thư Viện tỉnh. Đây là điểm mà mấy anh em xe ôm hay ngồi tán gẫu trong những lúc ế khách. Anh Hai H. một thầy giáo bỏ nghề, lấy chiếc ghi đông xe thay cho phấn, bảng bỏ tờ báo xuống nói với tôi:
- Ngày nào anh cũng đọc rất kỷ tờ báo Cần Thơ, nếu chịu khó suy nghĩ thì từ đây cũng có khối chuyện giúp mình kiếm thêm được vài cuốc xe.
Thấy tôi ngạc nhiên không hiểu, anh nói tiếp:
- Đâu có gì lạ, thí dụ như chuyện tranh chấp đất đai ở nông thôn đang rộ lên, chú cứ xách xe rề rề trước cổng Ủy ban Tỉnh hoặc cơ quan Thanh Tra. Thế nào cũng có người lên khiếu nại cần đi đến một nơi nào đó, nhưng quan trọng hơn là chú phải biết nhà riêng của tất cả các ông lớn. Chở họ đến đúng nơi cần thiết đôi khi họ trả cho mình gấp đôi, gấp ba một cuốc xe bình thường. Cái nghề xách xe chạy rong nầy coi vậy chứ chú phải biết nhiều thứ, nhiều nơi, phải để ý cả tình hình kinh tế xã hội hiện đang bức xúc vấn đề gì từ đó mà tính toán thời điểm cũng như địa điểm đón khách. Mình đã không có bến bãi thì phải biết tính toán, bằng không có khi tiền xăng còn chẳng đủ.
Quả thật, sau khi nghe những lời anh Hai H. nói ngẫm nghĩ không phải là không có lý. Mỗi nghề nghiệp, mỗi loại công việc đều có mối liên quan mật thiết với những biến động của xã hội. Vấn đề còn lại là người thực hiện công việc đó có tìm ra cho mình biện pháp tối ưu hay không mà thôi.
Chạy xe ôm bây giờ mình đã làm chủ chính mình, không còn cảnh bị bọn “cai xe” bóc lột như tác giả Tam Lang đã viết trong tập phóng sự đầu tiên của Việt Nam. Nhưng những cảnh đời, những nỗi khổ của thân phận con người mà tôi bắt gặp trong tháng ngày dong ruổi mưu sinh ấy sao mà giống nhau, sao mà đau đớn đến vậy.
Lần ấy, chỉ mới 3 giờ sáng tôi phải thức dậy để đưa một người quen ra bến phà đón xe về thành phố. Thôi thì sẵn đó mình chạy xe luôn, chứ bình thường tôi không chạy đêm bao giờ. Từ bến phà chạy lên, quẹo qua đường Cách mạng tháng 8 xuống lộ 20, đêm vẫn còn khuya lắm, thỉnh thoảng một vài chiếc xe lôi chở hàng chạy vụt qua, mấy người công nhân thuộc Công Ty Công trình đô thị vẫn cần mẫn làm việc, từng nhát chổi xào xạc nghe rõ mồn một trong đêm. Vừa qua khỏi lộ 19 khoảng vài chục mét thì từ lề đường bên phải có bóng một người đàn bà đưa tay ngoắc xe. Tôi dừng lại và cũng cùng lúc nhận ra đó là ai do lối ăn mặc, trang điểm của người ấy. Tuy không chạy đêm nhưng tôi cũng biết rằng quãng đường nầy là nơi tập trung của những người làm nghề mại dâm và những câu mời chào: “Anh ơi! Đi không anh?” chẳng lạ gì với cư dân thành phố Cần Thơ. Có lẻ sau một đêm làm việc cô ta đón xe về nhà trọ chăng? Tôi nghĩ vậy! Thế nhưng, để trả lời câu hỏi của tôi: “Cô về đâu?” là hai dòng nước mắt ràn rụa trên gương mặt trát kín phấn son rẽ tiền. Một giọng nói đứt quãng bởi nước mắt cất lên:
- Anh ơi! Em nhịn đói từ chiều hôm qua tới giờ. Anh đi giùm em rồi cho bao nhiêu cũng được!
Trời ơi! Khi mà kỷ nghệ bán thân đã được hiện đại hóa qua điện thoại di động, qua việc giới thiệu, chào hàng trên mạng Internet mà vẫn còn những con người cùng làm chung một công việc lại rơi xuống tận cùng của sự bi thảm, bệ rạc đến thế sao? Vợ tôi, khi nghe kể đến đây đã cằn nhằn: “Sao ông không chạy luôn, mà dừng lại nghe nó nói làm gì?”. Quả thật, vợ tôi nói rất đúng. Nhưng khi ấy, không hiểu sao tôi có linh cảm rằng nếu mình bỏ chạy luôn, xem như chẳng nghe, chẳng thấy gì thì lát nữa đây, chính người đàn bà nầy sẽ đâm đầu xuống sông hay lao mình vào đầu xe tự tử, hoặc sẽ có một tội ác gì đó rất khủng khiếp xảy ra! Quay lại bến xe Mới mua cho cô ta ổ bánh mì và một bịch trà đá. Ăn xong tươi tỉnh đôi chút, cô ta hỏi xin tôi điếu thuốc rồi châm lửa phì phèo. Dưới cái màu vàng vọt đèn đường của đêm sắp sáng, tôi nhận thấy sự mệt mõi, chán chường đến tận cùng trong mắt của người đàn bà nầy. C. tên người đàn bà ấy, kể cho tôi nghe chuyện đời mình qua làn khói mỏng giữa những hơi thuốc và từng tràng ho rũ rượi.
- “Em và nó gặp nhau trong trại xã hội. (Nó – ở đây là chồng của cô ta) – Cùng là dân 05 – 06 với nhau, những tưởng sẽ nương tựa nhau mà làm lại cuộc đời. Không ngờ, vướng vào nó thân em càng khốn nạn hơn! Ra trại cùng một đợt, hai đứa dắt díu nhau lên lộ 20 thuê nhà, gom góp hết tiền dành dụm mua cho nó chiếc 67, cứ ngỡ là mỗi ngày ít ra cũng có một, hai chục tiền gạo, tiền chợ. Tử tế được đâu nữa tháng, nó lại lao đầu vào ma túy. Trước thì hàng đen, bây giờ lại lậm thêm hàng trắng. Rồi chiếc xe cũng bay theo từng cơn đói thuốc của nó. Không có tiền, nó bắt em rước khách đem tiền về cho nó chích. Nhiều lần em bỏ trốn nhưng cũng không khỏi. Định tự tử thì thương mẹ già ở dưới quê. Mấy tháng trước nó chết, mấy thằng bạn ghiền của nó nói tại SiDa. Thoát khỏi thằng chồng quả báo, em lại bị sự ghẻ lạnh, xua đuổi của người chung quanh vì họ cho rằng em cũng đã lây bệnh. Tụi nó không cho em rước khách gần bến xe Mới mà đuổi em xuống đây...”
Cô ta kể về đời mình mà giọng tỉnh như không, như là đang nói về một người xa lạ nào đó. Phần tôi, càng nghe tôi càng có cảm giác mình đang bơi trong một bể nước khổng lồ mà độ lạnh của nó cứ tăng dần. Cách đây không lâu, tôi đọc được một phóng sự trên báo có cái tít bài hình như là: “Vác tử thần đi chơi”. Phải chăng người đàn bà nầy cũng là một nhân vật trong bài viết ấy?!
Hơn 70 năm trước, Tư S. người thầy của tác giả Tam Lang cũng đã gặp một tình huống tương tự, khi phải kéo một “chị chàng” đi kiếm khách suốt cả đêm để rồi: “Em lạy bác, bác thương em! Đây, bây giờ bác muốn làm gì em thì làm! Em thật không có một xu nào cả”. Tư S. kể lại: “Còn làm gì nữa, mình ném chiếc giầy xuống đất, đứng lên túm lấy toan đánh cho nó vài cái tát, nhưng trông thấy lại thương. Cảnh khổ gặp nhau. Mình khổ, không ngờ nó lại khổ hơn mình. Nghĩ thế rồi nước mắt tôi cứ chảy xuống giòng giòng, miệng tôi thì nghẹn ngào, cổ tôi như có người ghì bóp”.
Còn tôi bây giờ, nghe câu chuyện của người đàn bà tên C. nầy muốn khóc mà không khóc được. Cùng lọt xuống tận đáy xã hội như nhau, cũng đói khát, cũng đem nhân phẩm rao bán nhưng người đàn bà của quá khứ thì đáng thương, còn người đàn bà của năm 2002 nầy thì thật đáng sợ. Đã có bao nhiêu người đàn ông nhếch nhác, “mụ người’ vì rượu, qua đêm trong vòng tay tử thần?! Rồi những hệ lụy của đêm truy hoan ấy ai sẽ nhận lấy? Nhưng, theo tôi điều đáng sợ hơn cả là người đàn bà nầy không biết hay không muốn biết rằng mình đang đổi lấy miếng ăn bằng cái chết của những người khác, trong đó có cả những người đàn bà, những đứa trẻ mà hai chữ “hoan lạc” thật xa lạ với họ. Để rồi những miếng ăn cuối cùng ấy cũng chẳng ngăn được cái chết chẳng biết sẽ đến với mình lúc nào, dù nó đã gần lắm rồi. Sau chuyện ấy, tôi đã suy nghĩ rất nhiều nhưng không làm sao lý giải được vì sao con người ta càng văn minh tiến bộ lại càng dửng dưng với nhau đến như vậy? Cái quan niệm sống “Mackeno” – mặc kệ nó – dường như đã trở thành một kiểu cách lý tưởng của không ít người trong năm 2002 nầy. Chẳng vậy, với tầng lớp nào đó nó còn được hô hào, cổ xúy cứ y như một thứ “mốt” thời thượng.
Người phu xe ngày xưa, khi chứng kiến cảnh khổ của những con người “chưa chắc khổ hơn mình” còn nhỏ ra những giọt nước mắt. Thì ngày nay, dường như nước mắt “hơi bị hiếm” trong cái bối cảnh xã hội mà đồng tiền trở thành một loại “nhãn mác” hàng đầu trong tất cả các mối quan hệ xã hội. Chính điều đó đã làm cho con người tàn nhẫn với nhau hơn, sẵn sàng quay lưng trước nổi đau của chính những người ruột thịt. Người đàn ông ấy ngoắc xe tôi lại vào một buổi trưa nắng gắt trên đường 30 – 4, nhìn mồ hôi ướt đầm lưng áo tôi đoán có lẻ anh ta đã đi bộ một khoảng đường khá dài trước khi quyết định gọi xe. Trả giá 4.000 đồng cho hai lượt đi về, tôi gật đầu vì thông cảm cho anh ta hơn là vì giá tiền cuốc xe. Đứng đợi ngoài đầu hẻm đâu chừng 20 phút, thì anh ta quay ra trên tay có cầm một bọc gì đó nặng nặng, hình như gạo thì phải. Đến nơi, thay vì móc tiền, anh ta đưa tôi bọc gạo và nói:
- Thú thật với anh tôi không có đồng nào trong túi. Trước kia, tôi cũng chạy xe ôm như anh nhưng hơn tháng nay đã bán xe đổ tiền vào trị bệnh cho vợ mà xem chừng bệnh không hề thuyên giảm. Cô ấy bị ung thư. Hồi nảy, tôi đi tới nhà ông anh định mượn ít tiền về mua gạo cho mấy đứa nhỏ, rồi ngày mai sẽ đi xin làm phụ hồ kiếm được đồng nào hay đồng đó. Không ngờ, ông ấy chỉ xúc cho 3 lít gạo, rồi còn chưởi tôi ngu nữa. Tôi cũng không biết mình ngu cái gì. Thôi, anh chạy xe chắc cũng không giàu có gì, vậy anh lấy giùm mấy lít gạo nầy thay cho tiền xe vậy!
Dù sắt đá đến đâu, nhưng khi nghe anh ta nói như vậy bằng cái giọng nghèn nghẹn muốn khóc, tôi tin rằng ai cũng phải xúc động. Vợ tôi thì ứa nước mắt khi nghe kể đến đây, đã vậy còn trách: “Ông thật, sao không về nhà xúc thêm cho anh ấy mấy lít gạo? Không lấy tiền thì đã đành rồi, nhưng giá mà giúp thêm được chút ít!”
Vậy đó, những cảnh đời tôi gặp trong tháng ngày chạy xe liệu có khác gì với những thân phận như bọt bèo mà Tam Lang đã viết trong quyển “Tôi kéo xe”. Gần một thế kỷ trôi qua, nếu tấm lòng con người tỷ lệ thuận với sự tiến bộ vượt bậc của khoa học, sự lớn mạnh của kinh tế thì cuộc sống nầy sẽ tươi đẹp biết bao. Khi nói ra điều nầy không phải là tôi quá bi quan, cũng như không phải chung quanh ta không còn người tốt. Mà chỉ vì những con người tôi gặp trong cuộc đấu tranh vì miếng cơm manh áo ấy sao mà lạnh lùng, sao mà vô tình đến mức đáng sợ!
Nỗi khổ của con người dù trải qua bao biến thiên thì cũng vẫn là nỗi khổ. Và sự nhọc nhằn trong kiếp nghèo hèn ở thời điểm năm 1932, cũng có khác gì đâu nỗi cay đắng, tủi nhục của những người kiếm miếng cơm bụi bậm trên lề đường năm 2002! Khi viết “Tôi kéo xe” tác giả Tam Lang mong muốn cảnh “ngựa người” không còn nữa và điều đó nay đã trở thành hiện thực. Còn tôi, khi viết những dòng chữ nầy lại có một ao ước khác: “Không còn một người cùng khổ nào phải kiếm miếng cơm, manh áo trên hè phố, lề đường dù là dưới bất cứ hình thức nào”. Những gã “cai xe” chuyên bóc lột xương máu của anh em kéo xe, thời mà nhân dân ta oằn mình dưới ách đô hộ đã chết từ đời “tám oánh”. Nhưng nay lại có những gã “cai xe” kiểu khác, hiện đại, tinh vi hơn và đôi khi người bị bốc lột lại phải cám ơn người bốc lột mình.
Tôi không còn chạy xe ôm một thời gian sau đó mà đã chuyển sang nghề khác, tránh được cảnh hôm sớm dầm mưa dãi nắng. Tính đi tính lại cái quãng thời gian tôi “cầm tài” ấy thật ra chẳng thấm vào đâu so với nhiều người khác, nhưng với tôi thì đã quá đủ. Quá đủ để hiểu biết một lẻ đời, để miếng cơm mình nuốt vào miệng không phải nghẹn ra vì có được từ một góc khuất nào đó trong muôn vàn góc khuất của xã hội.



Rồi một ngày tình cũng chết, những cuống quít xôn xao của thuở tình đầu cũng sẽ qua đi.
Xin em một lần rung lên
tiếng chuông ngày cũ, ta sẽ nghe hồn mình run rẩy trong từng khoảng
thanh âm

TUỔI MƯỜI LĂM

Em đem cả ánh trăng rầm
Vào duyên con gái mười lăm tuổi tròn
Dường như nắng cũng ngọt hơn
Và hình như lá đang vờn bóng cây

Mùa xuân hoa cỏ hây hây
Em khoe với bướm rằng đây má hồng.