Thứ Năm, 4 tháng 12, 2008

CHÚT LÃNG MẠN ĐỒNG BẰNG

Ảnh Trương Công Khả

VÙNG SÂU QUÊ TÔI



Quê tôi – báo chí gọi “vùng sâu”
Độ mặn của nước – tính bằng lớp lớp váng phèn
bám vào da cha, da mẹ
Tóc ông nội bạc - lẫn cả màu vàng của nắng
Lưng bà còng – cong như con ốc lác mùa khô

Ngày cha sinh - ông nấu nước chụm rơm
Bà đẻ rớt trên đồng mùa giáp hạt
Bông súng, cù nèo cũng qua ngày đói rét
Hạt gạo dầu hơi – nữa trắng nữa vàng không đủ mà ăn

Ông hay tự trào: “Tao dốt đặc cán mai!
Bây ráng học để làm người nhân nghĩa”
Vậy mà Lục Vân Tiên – không hiểu sao ông chẳng quên một chữ
Cái nghĩa “bất bằng…” bám vào ông như rể đước, rể còng

Chúng tôi lớn lên nghe quen vần trắc, vần bằng
Đã thuộc tự bao giờ câu thơ lục bát
Mẹ bảo chúng tôi nhớ câu: “Nhân sinh tự cổ…”
Cha dạy chúng tôi: “Cái cò lặn lội bờ sông…”

Vùng sâu quê tôi – hạt lúa lớn lên cũng chẳng dễ dàng
Mùa khô nức nẻ – lũ cuối nguồn đầy mãi
Thế kỷ mới – vẫn còn chuyện lo cứu đói
Chỉ có chữ tình – mái lá nào cũng thật dư thừa

Tôi đi học xa – Thiếm Bảy chèo xuồng tiển đưa
Bác Năm dúi vào bọc đòn bánh tét
“Ráng học nghe con! Thành tài về giúp quê – giúp nứoc”
Câu dặn dò chung của cả xóm nghèo

Thành thị xa cứ nhớ mãi vùng sâu
Đêm thắt thỏm tiếng ễnh ương: “Quềnh quệch…”
Mẹ lên thăm kể: “Quê mình có điện…”
Tôi nghe mà nước mắt rưng rưng.

CHÚT LÃNG MẠN ĐỒNG BẰNG

Ảnh Trương Công Khả

NGHE ÚT TRÀ ÔN CA “TÌNH ANH BÁN CHIẾU”


Chiều châu thổ khề khà ly đế
Chéo ngoẩy đùi nghe Út Trà Ôn
Giọng kể lể “ Tình anh bán chiếu”
Nỏi đắng cay của kiếp thương hồ

Muồi biết bao nhiêu chổ dứt câu xề
Ngày xuôi ngược đêm thức cùng sông nước
Đôi chiếu bông dệt cho người năm trước
Trở lại đây em đã theo chồng

Ngã nào đâu em vội vả xuôi dòng?
Sông bảy ngã ông cách chi tìm được!
Đôi chiếu ấy hãy tặng tôi một chiếc
Đêm gối đầu chắc sẽ nằm mơ

Ông đừng trách chi chuyện người ấy làm ngơ
Không biết ông nâng niu từng cọng lác
Thời bây giờ người ta nằm nệm mút
Công của ông là công cốc rỏ ràng!

Tôi với ông đều là kiếp dã tràng
Cố xe cát xây lâu đài ảo mộng
Người tôi yêu chê tay tôi lọng cọng
Dệt chẳng nên thân chiếc chiếu sang giàu

Ông mất nàng mà chẳng biết nàng đâu
Tôi biết rõ mà cuối cùng vẫn mất

Vậy ông với tôi ai là người hạnh phúc !?

DỖI HỜN CÙNG BIỂN


MỘT MIẾNG CƠM ĐỜI


Có nằm mơ hay giàu tưởng tượng cỡ mấy ông nhà văn gã cũng không thể ngờ có ngày mình gặp lại ông ta trong căn phòng tạm giam chật hẹp này. Hơn hai tháng trời tới lui, lui tới dù muốn hay không gã cũng thuộc lòng cái “thời khóa biểu” của một kẻ chờ ngày đi gặp mấy ông tòa. Ngoài hai lần sáng, chiều cánh cửa sắt nặng chịch rít lên ken két khi phòng lao động đưa cơm, còn lại y như rằng hễ nghe tiếng chìa khóa rủng rẻng là có người lên gặp cán bộ làm việc hoặc tân binh nhập phòng.
Trưa nay cũng vậy, cán bộ quản giáo chưa kịp kéo cánh cửa sắt thì bảy cái đầu râu ria nham nhỡ đã sà đến chờ đợi. – “Tuấn, nhận tân binh nghe” – cán bộ Tư nói ngắn gọn rồi khép cửa, lấy đi luôn mớ ánh nắng vàng vọt vừa ùa vào cái nơi mà ông mặt trời ít khi có dịp ghé chơi.
Căn phòng luôn thiếu ánh sáng, tối nhờ nhờ nhưng gã nhận ra ngay ông ta dù đã khá lâu rồi không gặp. Trong khi sáu cặp mắt kia đang ngó như trợn trừng cái người mà cán bộ vừa gọi là tân binh ấy, thì đầu óc hắn cũng rối tung lên chẳng biết phải làm thế nào, nhận người quen ư? Không! Vờ không biết! Cũng chẳng ổn vì trong khoảng không gian chật hẹp này ngày mai, ngày mốt làm sao không đụng mặt; cũng may là hơn hai tháng rồi chưa cạo râu, hớt tóc nên khuôn mặt chắc khó coi lắm. Kệ! tới đâu hay tới đó. Còn Tuấn – trưởng phòng (gọi như vậy cho oai chứ thật ra chỉ là người ở đây lâu nhất được cán bộ phân công vậy thôi) – cũng quên luôn cái thủ tục đầu tiên khi thấy “ông” tân binh gì mà sang quá, tướng tá béo tốt phương phi, áo sơ mi trắng dài tay cài măng sét, còn bỏ vào quần nữa mới ghê chứ. Đồ đạc ông ta xách theo không phải mấy cái bọc hai quay hoặc túi đệm dúm dó như gã vẫn thường thấy mà là hai cái túi du lịch đắt tiền. Ông này mà gặp ngoài đời chắc hổng dám đi gần nữa chớ ở đó mà làm việc. Nói thì nói vậy, chớ với một thằng đã từng vào tù ra tội, ăn cơm trại nhiều hơn cơm đời như Tuấn thì qua một chút bối rối nó đã lấy lại bình tỉnh hất hàm:
- Đứng sát vào tường, cởi quần áo ra.
Ông ta lập cập dựa lưng vào tường, run run mở từng chiếc nút một và khi chiếc quần dài được tuột ra hẳn khỏi hai bàn chân thì bảy thằng “ma cũ” không ai bảo ai buột miệng cười sặc sặc. Tụi nó tức cười vì thấy cái thân hình béo trục, béo tròn, trắng như mỡ heo ấy xuất hiện trong căn phòng tạm giam này sao mà khôi hài quá, cái chỗ này lẽ ra chỉ dành cho bọn nó, cái đám cùng đinh lăn lóc bụi đời, xì ke ma túy kìa.
- Tội gì? Nói nghe coi! – Tuấn hỏi tiếp.
- Dạ! dạ làm giám đốc…
- Làm giám đốc sao bị bắt?
- Dạ! tại thiếu trách nhiệm…
- Ngộ quá hén… - Thằng Tuấn buột miệng nói tiếp: - Chuyện đó để cán bộ lo. Còn bây giờ ông vô đây thì phải chấp hành nội qui của phòng này. Ê Tám! Khám đồ coi có gì không mậy.
Thằng Tám vớ hai cái túi du lịch mở ra, hai bộ bi-ja-ma trắng, quần đùi, áo thun cũng toàn trắng; rồi mấy hộp bánh tây, bàn chải, kem đánh răng, hai bộ đồ âu phục mới cứng… Nhìn sơ qua thằng Tuấn biết ngay tay này mới ở tù lần đầu, nó lẩm bẩm: “Giống đi du lịch quá hén!”.
Trong khi thằng Tuấn “lên lớp”, sắp xếp chổ ngủ cho ông ta thì gã lui vào góc phòng thừ người ra ngẫm nghĩ. Chỉ hơn năm trước chớ mấy, lúc ấy hàng ngày gã phải chực chờ mở cổng cho xe con đưa ông ta vào cơ quan làm việc. Chỉ là bảo vệ quèn nên gã cũng chẳng thắc mắc làm gì khi thấy lúc nào cũng kè kè bên ông ta một cô thơ ký xinh đẹp. Nghe đâu ông đã li dị bà vợ và bỏ luôn mấy đứa con làm ruộng ở quê từ khi chễm chệ trên chiếc ghế giám đốc. Đã từng có quá trình tham gia kháng chiến, cũng nằm hầm, cũng chạy càn, cũng chém vè búa xua… thì việc tưởng thưởng công lao cũng xứng đáng thôi. Cái vụ vợ con biết đâu lỗi không phải của ông ta thì sao?! Gã cứ nghĩ lan man như vậy mà quên bẵng đi chuyện của chính bản thân mình.
Gốc quê, cha gã tham gia du kích, bị bọn giặc ruồng bắn chết ở đầu vàm khi gã vừa lên hai tuổi, lúc ấy đâu vào khoảng đầu những năm bảy mươi của thế kỷ trước. Mẹ gã vừa đào hầm nuôi chứa bộ đội vừa lo cho hai chị em gã ăn học bữa đực, bữa cái mà cũng lớn lên. Sau ngày giải phóng gã “canh me” vừa đúng 18 tuổi là xung phong đi bộ đội, rồi ra quân, rồi… thất nghiệp dài dài. Nhớ chuyện cũ, gã đâm lẩn thẩn tự hỏi: hồi đó con vợ mình sao ngu quá hén ta! Thương ai hổng thương đi lấy cái thằng thất nghiệp. Một dạo có đoàn cựu chiến binh về thăm quê, quen biết kiểu gì gã sức mấy mà biết nhưng sau đó một thời gian gã được vào làm bảo vệ ở cơ quan của ông “tân binh” này. Hơn năm trời làm cái việc đóng mở cổng, gã cũng dời luôn con vợ và cái bụng bầu từ vùng ven thành phố vào nhà trọ làm dân thị thành khơi khơi.
Suốt trong thời gian hết sáng rồi chiều chỉ làm công việc kéo cái bản lề thiếu nhớt rỉ sét ken két nghe nhức cả răng ấy chưa bao giờ gã cảm thấy mình ngon lành, ngoại trừ một lần. Đâu hơn 8 giờ ngoài rồi, cánh cửa lớn đã đóng cẩn thận, cửa nhỏ gần chổ gã ngồi mở hụ hợ cho có lệ khỏi mất công đứng lên, ngồi xuống khi mấy con mụ căn-tin ra vào liền liền. Cô thơ ký riêng của giám đốc đêm qua thức khuya hay sao mà ngủ trễ hộc tốc chạy xe như điên quẹo vào cơ quan đụng ngay con nhỏ bán báo dạo, hất tung chồng báo trên tay nó rớt xuống vũng nước đêm qua mưa lớn đọng lại. Con nhỏ bị đụng không đau gì mấy nhưng cả chồng báo rơi xuống ướt nhẹp coi như tiêu mạng. Không dừng lại xin lỗi hay xem xét thiệt hơn gì, cô ta điềm nhiên định lách xe vào cổng như chẳng có chuyện gì xảy ra. Nhưng cho dù cô ta có lẹ làng cỡ nào cũng không bằng một người đã từng mặc áo lính, gã kéo cánh cửa lại không cho cô ta vào và nói: - “Cô quay lại xem con nhỏ thế nào rồi hãy vào”. - “Cái gì? Anh dám…”. - “Cô đụng người ta rớt cả chồng báo xuống nước không thấy à, bồi thường cho con nhỏ rồi muốn vô thì vô…”. Nghe ồn ào nhiều người bu lại xem, cô thơ ký xinh đẹp “chịu phép” phải mua mắc mấy tờ báo ướt ấy chẳng biết có nói gì với ông ta hay không mà vài ngày sau người phụ trách tổ chức đã gặp hắn, khuyên nên làm đơn xin nghỉ việc để được hưởng 3 tháng lương, còn hơn bị buộc thôi việc một cắc không có. Biết mình chọc phải ổ kiến lửa, gã lẵng lặng cầm mớ tiền ra đi không hẹn ngày trở lại.
Vợ sắp sinh con, thất nghiệp, gã đã phải làm đủ thứ công việc không tên với mong muốn trụ lại được ở thành phố này dù thâm tâm gã cũng hiểu chuyện quy hồi cố thổ cũng chỉ nay mai. Bữa nọ buồn quá gã ngồi nhâm nhi ly rượu vỉa hè không ngờ gặp lại thằng bạn từ thời còn cầm súng trên rừng. Nghe gã kể khổ, hắn ta hào phóng buông một câu chưởi thề rồi nói: “Tao cho mầy mượn chiếc xe mỗi ngày đảo lòng vòng kiếm tiền nuôi vợ đẻ, đây cạt-vẹt mầy giữ luôn có gì thì đưa ra, khỏi lo gì cả khi nào khá thì trả lại tao…”. Đơn giản như đang giỡn. Thằng bạn để lại chiếc xe rồi đi, quên luôn chuyện cho gã biết địa chỉ. Con vợ gã mừng như bắt được vàng, tíu tít lo sắm đồ lề cho gã gia nhập đội quân xe ôm. Mọi chuyện êm ấm đâu cũng vài tháng, vợ gã mẹ tròn con vuông. Ngày gã có đứa con đầu lòng, mẹ gã từ dưới quê lên thăm mới biết chuyện gã mất việc, bà ngồi bần thần coi bộ suy nghĩ lung lắm, gương mặt rười rượi buồn buồn mà chẳng nói gì.
Bữa đó, không biết có phải cái ngày định mệnh hay không? Mà người khách đi xe ôm kéo luôn gã vô đồn công an rồi hô hoán “ăn cắp xe”. Gã chưa kịp hiểu ra thì mấy ông công an đã thảy cho gã cái lệnh tạm giam. Hóa ra, chiếc xe mà thằng bạn quý hóa cho mượn là của ăn cắp, còn cái cạt-vẹt cũng là đồ giả nốt. Đúng là cái thằng trời đánh, bây giờ biết kiếm nó ở đâu khi một dòng địa chỉ cũng mịt mờ sương khói.


*
* *

Có thể hiểu thế này, trại tạm giam giống như một trạm trung chuyển trong thời gian người phạm pháp chờ kết luận điều tra và ra tòa nhận án. Sau khi có mức án cụ thể sẽ được chuyển đi thụ hình ở những nơi khác, rộng rãi, dễ chịu hơn cái nơi chật hẹp này (tất nhiên là không bằng ngoài đời rồi). Riêng ở một số trường hợp như: chưa bắt được đồng phạm, chưa đủ chứng cứ thì người bị tạm giam tiếp tục nhận gia hạn tạm giam chẳng biết đến khi nào như vụ việc của Tuấn trưởng phòng và gã.
Ngày mới vào phòng này, gã cũng bần thần bẩn thẩn y hệt như ông ta bây giờ. Trước đây, đã có lần gã nghe kể về chuyện ma cũ ăn hiếp ma mới trong các trại giam, thậm chí có người còn bị đánh đến chết, cho nên khi bước vào phòng tạm giam nầy gã luôn hồi hộp không biết số phận mình sẽ ra sao. Vậy rồi, đã chẳng có chuyện gì xảy ra. Sau nầy, khi đã ở đây một thời gian thì gã nhận ra rằng thật ra những người tù nầy chưa hẳn là đã quá tệ hại. Ngoài xã hội mỗi người một hoàn cảnh sống khác nhau và con đường đưa họ vào đây cũng khác. Nhưng khi đã hiểu rõ họ hơn, gã nhận ra một điều: thật ra con người ai cũng muốn làm được những điều tốt đẹp, cũng muốn cuộc sống của mình hạnh phúc, chỉ vì một hoàn cảnh nào đó đưa đẩy mà họ phạm tội. Thế nhưng, liệu sau cuộc hành trình tù tội, khi rời khỏi nơi đây trước những thử thách muôn hình vạn trạng của cuộc đời, làm sao giữ được mình là điều khó khăn vô cùng. Đôi khi gã nghĩ giá như ngoài đời họ cũng chia sẻ cho nhau như trong tù, cũng tìm đủ mọi cách để được sống dễ chịu hơn như khi còn ở đây, hẳn là sẽ có rất ít người phải quay trở lại căn phòng mờ tối nầy.
Người đời thường nói “Đi một ngày đàng học một sàng khôn”. Còn gã thì chỉ quanh quẩn trong căn phòng chật hẹp nầy cũng học được khối cái. Chế độ của phạm nhân ở đây mỗi ngày chỉ được hai “bo” cơm (thau mủ nhỏ), nên buổi tối nếu có, họ thường ăn thêm mì gói. Lúc nhập phòng gã thấy thức ăn của mình bị gom vào một góc, muốn phản ứng mà không dám nhưng sau đó gã hiểu rằng ở phòng nầy mọi cái đều được chia sẻ với nhau, kể cả người không có thăm nuôi. Tuy vậy, điều làm gã ngạc nhiên nhất là không hiểu cách nào họ có thể nấu nước sôi vì trong phòng không hề có vật dụng gì bằng nhôm hoặc kim loại và cũng chẳng có cái gì gọi là chất đốt.
Đã từng có một nhà văn nào đó viết về nỗi ám ảnh của những chiếc bọc nhựa hai quay, nhìn đâu cũng có, thừa mứa muốn ói luôn. Vậy mà, trong trại tạm giam hay nói cụ thể trong phòng này thiếu những cái bọc nhựa hai quay là chết chắc. Có thể nói tất tần tật mọi sinh hoạt ở đây đều liên quan đến cái bọc mõng manh ấy. Tạm chia làm hai loại: bọc xịn và bọc tái chế. Bọc xịn dày, màu sắc đẹp được làm bằng cao su tốt khi kéo ra đến một mức nào đó có thể dùng làm dây phơi đồ, giăng mùng, cột túm mấy đồ dùng cá nhân treo tòng teng tỏn tẻn, làm phương tiện “chuyển hàng” từ phòng này qua phòng kia hay “văn nghệ” hơn là thắt hình con tôm làm móc đeo chìa khóa đẹp ác luôn. Còn bọc tái chế thì gom lại làm “hỏa tốc” một loại chất đốt chỉ có trong tù, không cháy dữ dội, ào ạt mà bền bỉ như chính sự nhẫn nại của những người sử dụng nó.
Những ngày đầu mới vào lúc nào ông ta cũng nằm nhắm mắt dàu dàu, tới bữa ăn lắc đầu làm mấy đứa trong phòng khoái chí tử, mà nuốt làm sao vô mớ cơm nấu bằng chảo đụn, xới bằng leng còn thức ăn là mấy khứa cá trê phi tanh rình được nuôi bằng chính chất thải ra của bọn ở đây. Cũng may, Tuấn là thằng hiểu chuyện nên mớ bánh tây sô-cô-bay, sô-cô-biết… gì đó nó không xung vào công quỹ của phòng, thỉnh thoảng chắc đói quá ông ta lại lấy ra ăn trong tâm trạng bất an thấy thương. Chuyện ông ta từng là thủ trưởng của gã không ai biết và cả hai dường như cũng thỏa thuận ngầm là không nói ra, nhiều lúc gã biết ông ta đang nhìn mình chăm chú như muốn nói điều gì. Nếu gã chủ động gợi chuyện trước chắc là ông ta sẽ thoải mái hơn nhưng gã quăng cục lơ làm ông ta mất hứng nín luôn.
Đâu hơn tháng sau, khi mà mỗi lần lên làm việc về phòng ông ta tự động cởi đồ khoe tấm thân trắng nhễ nhãi chớ không còn áo kín quần cài như lúc mới vô (nóng thấy bà luôn) thì cũng là lúc mấy món đồ thăm nuôi thưa dần. Tuần lễ đầu hai lần, tuần thứ hai y vậy, tuần thứ ba một lần rồi tuần thứ tư lơi dần, sang tuần thứ năm thì mất bóng. Nghe đâu cô thơ ký riêng già nhân ngãi non vợ chồng với ông ta đã cao bay xa chạy (cái này mấy đứa ở phòng lao động “tám” lại khi gã có dịp ra ngoài làm chuyện lặt vặt cho cán bộ). Lẽ ra, một người từng là thủ trưởng một cơ quan ngon lành phải có rất nhiều người thân mới phải, đằng này dường như khi ngã ngựa thì ông ta cũng mất luôn những mối quan hệ tiền hô hậu ủng trước đây. Không còn thăm nuôi nên ông ta cũng phải quen dần với bo cơm nhà trại, tối xuống cũng ngồi hì hục nấu nước sôi bằng ca nhựa chia nhau miếng mì ký rẻ tiền mà trước đây cho vàng ông cũng không ăn, đôi khi phòng hết “hỏa tốc” ông ta cũng nuốt ngon lành cái thứ mì trụng nước lạnh như ai.
Mà phải công nhận khi quá khổ tự nhiên con người ta nảy ra những “sáng kiến” tuyệt vời như kiểu nấu nước bằng bọc ny long (loại bao đựng xà bông), hay ca nhựa thoa dưới đít một chút xà bông cục, nếu không tận mắt chứng kiến đời nào gã tin. Nhưng có lẽ cái làm gã phục lăn là việc “chuyển hàng” từ phòng này qua phòng kia, nói là hàng chứ thực ra là thuốc lá mỗi lần vài điếu. Ở trại tạm giam này cái làm bọn gã bần thần nhất là việc cấm hút thuốc lá trong phòng, với những người ghiền thuốc thì quả là cực hình. Do đó, khi có thăm nuôi thằng nào “diếm” được mấy điếu đem về phòng là cả bọn chia nhau hút bình (chế bằng mấy chai dầu gội đầu) hà tiện từng sợi thuốc, kẹt quá thì vay tạm của phòng bên cạnh kiếm được trả sau. Mà cái vụ vay thuốc này kể ra mới thấy đúng là chỉ có “bọn tù” mới làm được. Phòng nào phòng nấy kín bưng, chỉ có hai lổ thông gió chỉ rộng bằng miếng gạch thẻ nằm trên cao cỡ hai thước. Hành lang phía trước cũng có vách ngăn hai phòng với nhau bằng một cánh cửa sắt chỉ mở khi phòng lao động đưa cơm nhưng đôi khi cán bộ cũng quên không đóng lại và nhờ đó mà bọn nó mới ra tay hoạt động được. Trước tiên, phải dọng gót chân vào tường báo hiệu cho phòng bên cạnh lên “mai” (tức lổ thông gió) nói chuyện, rồi một thằng lớn con công kênh một thằng nhỏ con kèm theo đồ nghề là một chiếc dép “lào” được cột chắc chắn bằng dây nhựa dài 5, 6 mét hoặc hơn nữa. Đầu tiên bên cho mượn sẽ quấn mấy điếu thuốc thật kín vào bọc ny long sau đó cột vào chiếc dép rồi ném xéo về phía cửa phòng bên này, cũng đồ nghề y vậy thằng bên đây sẽ ném chiếc dép làm sao cho vướng vào dây bên kia rồi từ từ kéo lên, gở thuốc ra ném trả lại chiếc dép cho bên kia kéo lên là xong. Nói là nói vậy chớ thật ra làm cũng chẳng dễ dàng gì bởi cái lổ thông gió quá nhỏ mà lại cao, thằng đứng dưới phải khỏe và thằng phía trên phải ném cho chính xác bằng không làm tới làm lui là dễ lộ khi cán bộ kiểm tra đột xuất.
Về phần ông ta sau khi đã “thông” tư tưởng, chắc là đã xác định mình sẽ ở đây lâu nên cũng hòa mình với đám “dân đen” trong phòng. Có lần ông ta xung phong công kênh thằng Tám lấy thuốc, chòi đạp thế nào mà bườn lên cả đầu ông ta khiến gã trông thấy cũng bất nhẫn. Vậy mà, ông ta chẳng nói gì lại cười hỉ hả khi cả phòng chia nhau từng “bi” thuốc.
Tuần trước mẹ và vợ gã vào thăm, khi nghe gã kể chuyện ông ta ở chung phòng trong này mẹ hắn tự nhiên lặng lẽ rơi nước mắt. Lúc ấy, gã nhủ thầm chắc mẹ mình lẩm cẩm rồi, hơi đâu thương người dưng mà lại là người đuổi việc hắn nữa chứ. Nếu còn làm bảo vệ thì chắc gã đâu gặp lại thằng bạn vàng để mà vô đây lãng xẹt như vậy. Thông thường khoảng nửa tháng mẹ hoặc vợ gã mới vào thăm nuôi một lần, chẳng biết có chuyện gì mà tuần này mẹ gã lại đến. Khi cán bộ gọi tên gã đã hết sức ngạc nhiên, tiền đâu mà thăm nuôi hàng tuần, vợ gã thì cũng đã về quê từ khi hắn bị bắt, nuôi con còn hổng xong nữa là. Kèm theo một mớ đồ nhà nghèo như ký mì vụn, bọc trà còn có một mo cơm mà mẹ hắn dặn đi dặn lại cái này dành cho ông ta. Ngộ nghen, hồi nào tới giờ mẹ gã chưa bao giờ gởi cơm cho gã cả vậy mà lặn lội từ quê lên để gởi cho ông ta mới ghê chớ.
Khi về phòng, đưa bọc đồ cho thằng Tám gã nói với Tuấn trưởng phòng mo cơm này mẹ gã gởi cho ông ta. Mặc kệ cho mấy thằng trong phòng tròn xoe mắt ngạc nhiên và cả ông ta cũng vậy. Mở ra, một gói cơm trắng và mớ cá bống kho tiêu, không hiểu sao ông ta nhìn trừng trừng rồi ngổi xuống cầm chiếc mo đựng cơm mà khóc. Đêm đó ông ta kéo chiếc chiếu lại nằm gần gã rồi nói: “Tôi thật có lỗi với mẹ của anh, ngày xưa chính bà đã nuôi giấu tôi suốt trong thời kỳ chiến tranh chính bằng những mo cơm và cá bống kho tiêu thế này. Có lần bọn địch càn ba bốn ngày, sợ tôi đói dưới hầm mẹ đã liều cả mạng sống của mình để mang cơm cho tôi. Vậy mà, tôi đã xử sự hết sức không phải với anh. Nay vào tù thì cũng chính mẹ mang cơm cho tôi chớ không phải là những người tôi tưởng là rất thương yêu mình…”.
Sáng hôm sau, gã vẫn còn thiu thiu ngủ thì nghe tiếng của ông ta:
- Cán bộ ơi! Cán bộ tôi xin được làm việc.