(Hỏi cung - Ảnh tư liệu xưa)
(Thụ hình - Ảnh tư liệu xưa)
(Ăn cắp bị phạt đòn - Ảnh tư liệu xưa)Ngay từ khi tôi còn nhỏ xíu, đã nghe má đọc mấy câu vè này rồi. Nhất là những lúc nhà thắt ngặt, thiếu thốn thì hai câu: “Bạc không cánh bay đâu chẳng biết. Vàng không chân mấy chiếc cũng không còn…” lại được má tôi lập đi, lập lại khiến mấy anh em tôi thuộc lòng từ hồi nào chẳng biết. Sau này, lớn lên chút đỉnh có lần tôi hỏi: “Sao má đọc mấy câu đó hoài vậy? Hoàn cảnh nhà mình bây giờ cũng đỡ rồi mà”. – “Tại con hổng biết, chớ đây là bài vè kinh tế mà má thuộc lòng từ hồi nhỏ…”. Thấy lạ lạ tôi đã nhờ má đọc cho tôi chép lại cả bài, có thể không chính xác từng chữ nhưng với một bà lão trên 70 tuổi, việc đọc thuộc lòng cả 94 câu của bài vè là đã quá tốt rồi dù cũng phải cả một tuần lễ mới xong. Qua sự việc này tôi chợt nhận ra một điều đó là sức sống mảnh liệt cũng như ảnh hường sâu rộng của “vè”, một loại hình văn học dân gian rất phổ biến ở nông thôn Việt Nam xưa.
Vè Kinh tế
Nghe vẻ nghe ve
Nghe vè kinh tế
Ngồi suy nghĩ xem trong cuộc thế
Thấy nhân dân kinh tế mà thương
Chẳng qua là Nam Việt vô Vương thảm thiết
Bạc không cánh bay đâu chẳng biết
Vàng không chân mấy chiếc cũng không còn
Mấy năm sau lại hao mòn
Mùa màng thất bát lính còn bắt buột
Thương hại cho lê dân đứt ruột
Đã lâm nguy lại gặp thêm cảnh ngặt nghèo
Thảm cho vợ con đói rách đùm đeo
Trốn bờ bụi mã tà còn kiếm bắt
Có gan đồng dạ sắt
Cũng rơi nước mắt một khi
Sách có chữ “Thố tử Hồ bi”
Vật còn biết thương vật
Huống chi người chẳng tưởng
Đại Pháp cầm quyền chấp trưởng
Tưởng đâu Nam kỳ
Vui hưởng thái bình
Một lần bão lụt năm Thìn
Đã hao tốn xứ mình vô hạn
Mùa màng thất bát
Giá lúa đồng sáu, đồng ba
Một đầu thuế tính ra là năm giạ
Qua năm Tuất điềm trời cũng lạ
Giá lúa sụt một giạ còn hai cắc ngoài
Biết làm sao đóng nổi lá bài
Đi làm mướn tối ngày có một cắc mấy
Mấy năm trước cũng nhờ lúa mắc
Lại bán đắt mua may
Hà cờ gì cho đến năm nay
Đồ vật thực rẻ thôi vô số
Chệt bán buôn bỏ phố trốn về Tàu
Ghé mà coi mấy cậu nhà giàu
Ngó bảnh bao mà anh nào cũng mua chịu
Lập bộ đất cắn răng mà chịu
Lỡ chân rồi khó liệu, khó lo
Dòm nhà nào cũng bữa đói, bữa no
Nhổ bông súng, móc củ co cũng còn dễ thở
Lúc túng cùng bán xài cũng đỡ
Khỏi lo thiếu nợ, thiếu nần
Sách có chữ “tiểu phú do cần”
Lại có chữ “thanh bần vô hại”
Dĩa dưa, dĩa muối
Đạm bạc cơ hàn
Xịch xạc lều tranh
Mặc ai đục cò trục lợi kinh doanh
Tham cho thái quá
Đi ngang về tắt
Chuyện thời thế, thế thời
Càng ngày càng gắt
Đường vinh nhục đổi thay một lát
Trời lại khiến cho nhân dân đói khát
Bảy ngày đầu năm tiếng pháo vắng teo
Ba mươi tết chẳng thấy ai mần heo cúng kiến
Lại có ít người đến viếng ông bà
Giấy áo quần, vàng bạc, nhang trà
Tiền đâu có mà lo đơm oải
Nhớ hồi nẵm tiền còn rộng rãi
Giàu thì nhiễu nho
Nghèo cũng bô vải cho vợ con
Nay gạo đong từ lon, từ lít
Vui sướng gì mà sắm món ngon vật lạ
Nhiều người lệ hạ tuôn rơi
Một năm trời bảy bữa ăn chơi
Cũng không đặng thảnh thơi, thong thả
Chồng mang lưới
Vợ mang chài
Con quần vá
Áo còn bâu
Quần còn lưng
Cũng ráng lo cuốc bẫm cày sâu làm rẫy bái
Than ôi!
Khoai không củ
Cải đỏ nghen còi cọc mọc ngồng
Phải tưới nước vun phân
Trăm bề vất vả
Công cấy, công cày
Lúa nở bụi bắp chân
Ai ai cũng vui cười hớn hở
Có ngờ đâu tiết trời tráo trở
Nước 30 tháng 9 hết chừng
Đi trên bờ lộ phải xăn quần tới háng
Chòi trại ngập sàng trôi ván mất tăm
Ngó ra đồng ra ruộng tợ biển đông
Tội nghiệp kẻ canh nông
Tấm lòng héo hắt
Trong làng tổng người người xốn mắt
Bọn Hội tề, quan Chánh lớn
Động lòng chắc lưỡi lắc đầu
Thế này qua năm tới lúa đâu mà nộp
Nhà nước hết lòng bảo hộ nhân dân!
(Ghi lại theo trí nhớ của bà Nguyễn Thị Ảnh, sinh năm 1931, hiện ngụ tại P. Trường Lạc, Q. Ô Môn, TP. Cần Thơ)
Má tôi còn nói bài vè này của ông Năm Của người làng Rạch Cam, Long Tuyền được truyền miệng rộng rải vào khoảng thập niên 30 thế kỷ trước tại làng Tân Thới, Phong Phú, Phong Dinh. Đọc kỹ lại bài vè và nghiên cứu thêm tài liệu tôi có được một số hiểu biết cũng không kém phần thú vị.
Trong Ðại Nam quốc âm tự vị, vè là chuyện khen chê có ca vần và việc sáng tác vè nói nôm na là đặt chuyện khen chê có ca vần. Ðịnh nghĩa này còn đơn giản, nhưng đã nêu được những đặc trưng cơ bản của vè. Nó chính là thể loại tự sự dân gian bằng văn vần, chủ yếu nhằm phản ánh kịp thời và cụ thể những chuyện về người thật, việc thật ở từng địa phương, những sự kiện có ý nghĩa trong đời sống nhân dân.
Vè có từ bao giờ? Chưa có cơ sở xác định nhưng người ta biết rằng vè nảy sinh chủ yếu trong thời kỳ phong kiến và phát triển nhất trong thời kỳ cận đại ở các thế kỷ XVIII, XIX, XX. Sự xuất hiện của vè là một bước tiến mới của văn tự sự dân gian. Vè xuất hiện để bổ sung cho lối kể truyện bằng văn xuôi một cách thể hiện mới có vần có nhịp, qua đó biểu hiện nội dung các vấn đề xã hội mà nhân dân muốn nêu lên.
Xã hội Việt Nam vào những năm 1936-1939, đa số nông dân không có ruộng đất, hoặc có ít ruộng, họ phải đi lãnh đất của địa chủ để cày cấy, hoặc đi làm thuê làm mướn. Đã khốn khổ về kinh tế, vật chất thiếu thốn lại còn bị nạn thiên tai bão lụt, dịch bệnh liên tiếp xảy ra. Năm 1937, nạn đói xảy ra ở khắp miền Bắc. Năm 1938 nạn đói xảy ra ở khắp ba miền ngay cả ở miền Nam như các tỉnh Bạc Liêu, Cà Mau, Rạch Giá, Cần Thơ, Châu Đốc, Long Xuyên người dân cũng bị đói khổ. Có thể bài “Vè kinh tế” nói trên xuất hiện vào khoảng thời điểm này, căn cứ vào nội dung mà bài vè truyền tải ta có thể xếp bài vè này vào nhóm “vè thế sự”.
Vè thế sự ghi nhận thực trạng đời sống nhân dân. Trong đó loại vè thế sự có giá trị hiện thực hơn cả là những bài đả kích ách thống trị của bọn thực dân, phong kiến. Từ những sự kiện cụ thể trong đời sống sinh hoạt, nhân dân bài vè đã cho người nghe thấy được những nguyên nhân xã hội dẫn đến cuộc sống khốn cùng. Nhìn chung, vè thế sự miêu tả rất sinh động cuộc sống nhân dân, phản ánh hiện thực xã hội nước ta dưới ách thống trị thực dân phong kiến.
Quay lại bài “Vè kinh tế” trong phần mở đầu:
Nghe vẻ nghe ve
Nghe vè kinh tế
Ngồi suy nghĩ xem trong cuộc thế
Thấy nhân dân kinh tế mà thương
Chẳng qua là Nam Việt vô Vương thảm thiết
Bài vè đã đi thẳng vào vấn đề, Nam bộ đã không còn “chủ quyền” mà nằm dưới quyền sinh sát của người Pháp. Điều này càng được khẳng định hơn ở các đoạn sau:
Đại Pháp cầm quyền chấp trưởng
Tưởng đâu Nam kỳ
Vui hưởng thái bình…
Để rồi kết thúc bằng cái nhìn hết sức chua chát và châm biếm sâu sắt:
…
Trong làng tổng người người xốn mắt
Bọn Hội tề, quan Chánh lớn
Động lòng chắc lưởi lắc đầu
Thế này qua năm tới lúa đâu mà nộp
Nhà nước hết lòng bảo hộ nhân dân!
Có những chi tiết trong bài “Vè kinh tế” mà khi đọc nó lại làm tôi liên tưởng đến một số tác phẩm văn học miêu tả bối cảnh xã hội lúc bấy giờ mà nhà văn Hồ Biểu Chánh là gương mặt tiêu biểu.
…
Mùa màng thất bát lính còn bắt buột
Thương hại cho lê dân đứt ruột
Đã lâm nguy lại gặp thêm cảnh ngặt nghèo
Thảm cho vợ con đói rách đùm đeo
Trốn bờ bụi mã tà còn kiếm bắt…
Phải chăng đây chính bức tranh tăm tối của kẻ cùng đinh mạt hạng Lê Văn Đó trong tác phẩm (Ngọn cỏ gió đùa), nghèo đến mức phải ăn trộm nồi cháo heo để cứu đói mẹ già và đàn cháu nhỏ, trải qua tù tội khổ ải.
Còn ở hai câu:
Dòm nhà nào cũng bữa đói, bữa no
Nhổ bông súng, móc củ co cũng còn dễ thở
Cũng đâu khác gì:
“cả nhà phải luộc rau cỏ mà ăn đỡ, chớ không có cháo mà ăn” (Ngọn cỏ gió đùa, trang 16). Cái đói đã làm tắt hẳn nụ cười hồn nhiên trên những gương mặt thơ ngây, lưu lại dấu tích thê thảm: “sắp nhỏ nhịn đói mặt mày vàng ẻo “( Ngọn cỏ gió đùa, trang 16).
Tác giả bài “Vè kinh tế”, một nghệ sĩ dân gian đã không bỏ qua chi tiết nào từ những cái rất chung, rất tiêu biểu đến những cái rất cụ thể mà hết sức chân thật như:
Một lần bão lụt năm Thìn
Đã hao tốn xứ mình vô hạn
Mùa màng thất bát
Giá lúa đồng sáu, đồng ba
Một đầu thuế tính ra là năm giạ
Qua năm Tuất điềm trời cũng lạ
Giá lúa sụt một giạ còn hai cắc ngoài
Biết làm sao đóng nổi lá bài
Đi làm mướn tối ngày có một cắc mấy…
Hay:
Chệt bán buôn bỏ phố trốn về Tàu…
Chính là đề cập đến chủ trương sử dụng lá bài Hoa kiều của Nhà nước Pháp quốc lúc bấy giờ vì tư bản Hoa kiều là những kẻ có đủ sức mua những hàng hóa của Pháp để bán lại ở Việt Nam.
Hoặc:
Lập bộ đất cắn răng mà chịu
Lỡ chân rồi khó liệu, khó lo
Dòm nhà nào cũng bữa đói, bữa no
Nhổ bông súng, móc củ co cũng còn dễ thở…
Chính là cách làm bần cùng hóa nông dân của nhà nước bảo hộ khiến họ phải bán ruộng đất cho địa chủ với giá rẻ.
Nhìn chung, mỗi bài vè có giá trị nghệ thuật khá độc đáo riêng của nó. Phần lớn các bài vè có vận mệnh ngắn ngủi, thời gian cần thiết để đạt tới một hình thức hoàn chỉnh, trau chuốt ít có được. Thế nhưng, bài “Vè kinh tế” này đã sống gần một thế kỷ dù có thể chỉ một mình má tôi nhớ đến nó. Xin cám ơn má đã cho con hiểu thêm giá trị của một loại hình văn học dân gian cũng như một lần nhìn lại bức tranh ảm đạm của nhân dân ta dưới ách thống trị trong thời kỳ Pháp thuộc.
Vè Kinh tế
Nghe vẻ nghe ve
Nghe vè kinh tế
Ngồi suy nghĩ xem trong cuộc thế
Thấy nhân dân kinh tế mà thương
Chẳng qua là Nam Việt vô Vương thảm thiết
Bạc không cánh bay đâu chẳng biết
Vàng không chân mấy chiếc cũng không còn
Mấy năm sau lại hao mòn
Mùa màng thất bát lính còn bắt buột
Thương hại cho lê dân đứt ruột
Đã lâm nguy lại gặp thêm cảnh ngặt nghèo
Thảm cho vợ con đói rách đùm đeo
Trốn bờ bụi mã tà còn kiếm bắt
Có gan đồng dạ sắt
Cũng rơi nước mắt một khi
Sách có chữ “Thố tử Hồ bi”
Vật còn biết thương vật
Huống chi người chẳng tưởng
Đại Pháp cầm quyền chấp trưởng
Tưởng đâu Nam kỳ
Vui hưởng thái bình
Một lần bão lụt năm Thìn
Đã hao tốn xứ mình vô hạn
Mùa màng thất bát
Giá lúa đồng sáu, đồng ba
Một đầu thuế tính ra là năm giạ
Qua năm Tuất điềm trời cũng lạ
Giá lúa sụt một giạ còn hai cắc ngoài
Biết làm sao đóng nổi lá bài
Đi làm mướn tối ngày có một cắc mấy
Mấy năm trước cũng nhờ lúa mắc
Lại bán đắt mua may
Hà cờ gì cho đến năm nay
Đồ vật thực rẻ thôi vô số
Chệt bán buôn bỏ phố trốn về Tàu
Ghé mà coi mấy cậu nhà giàu
Ngó bảnh bao mà anh nào cũng mua chịu
Lập bộ đất cắn răng mà chịu
Lỡ chân rồi khó liệu, khó lo
Dòm nhà nào cũng bữa đói, bữa no
Nhổ bông súng, móc củ co cũng còn dễ thở
Lúc túng cùng bán xài cũng đỡ
Khỏi lo thiếu nợ, thiếu nần
Sách có chữ “tiểu phú do cần”
Lại có chữ “thanh bần vô hại”
Dĩa dưa, dĩa muối
Đạm bạc cơ hàn
Xịch xạc lều tranh
Mặc ai đục cò trục lợi kinh doanh
Tham cho thái quá
Đi ngang về tắt
Chuyện thời thế, thế thời
Càng ngày càng gắt
Đường vinh nhục đổi thay một lát
Trời lại khiến cho nhân dân đói khát
Bảy ngày đầu năm tiếng pháo vắng teo
Ba mươi tết chẳng thấy ai mần heo cúng kiến
Lại có ít người đến viếng ông bà
Giấy áo quần, vàng bạc, nhang trà
Tiền đâu có mà lo đơm oải
Nhớ hồi nẵm tiền còn rộng rãi
Giàu thì nhiễu nho
Nghèo cũng bô vải cho vợ con
Nay gạo đong từ lon, từ lít
Vui sướng gì mà sắm món ngon vật lạ
Nhiều người lệ hạ tuôn rơi
Một năm trời bảy bữa ăn chơi
Cũng không đặng thảnh thơi, thong thả
Chồng mang lưới
Vợ mang chài
Con quần vá
Áo còn bâu
Quần còn lưng
Cũng ráng lo cuốc bẫm cày sâu làm rẫy bái
Than ôi!
Khoai không củ
Cải đỏ nghen còi cọc mọc ngồng
Phải tưới nước vun phân
Trăm bề vất vả
Công cấy, công cày
Lúa nở bụi bắp chân
Ai ai cũng vui cười hớn hở
Có ngờ đâu tiết trời tráo trở
Nước 30 tháng 9 hết chừng
Đi trên bờ lộ phải xăn quần tới háng
Chòi trại ngập sàng trôi ván mất tăm
Ngó ra đồng ra ruộng tợ biển đông
Tội nghiệp kẻ canh nông
Tấm lòng héo hắt
Trong làng tổng người người xốn mắt
Bọn Hội tề, quan Chánh lớn
Động lòng chắc lưỡi lắc đầu
Thế này qua năm tới lúa đâu mà nộp
Nhà nước hết lòng bảo hộ nhân dân!
(Ghi lại theo trí nhớ của bà Nguyễn Thị Ảnh, sinh năm 1931, hiện ngụ tại P. Trường Lạc, Q. Ô Môn, TP. Cần Thơ)
Má tôi còn nói bài vè này của ông Năm Của người làng Rạch Cam, Long Tuyền được truyền miệng rộng rải vào khoảng thập niên 30 thế kỷ trước tại làng Tân Thới, Phong Phú, Phong Dinh. Đọc kỹ lại bài vè và nghiên cứu thêm tài liệu tôi có được một số hiểu biết cũng không kém phần thú vị.
Trong Ðại Nam quốc âm tự vị, vè là chuyện khen chê có ca vần và việc sáng tác vè nói nôm na là đặt chuyện khen chê có ca vần. Ðịnh nghĩa này còn đơn giản, nhưng đã nêu được những đặc trưng cơ bản của vè. Nó chính là thể loại tự sự dân gian bằng văn vần, chủ yếu nhằm phản ánh kịp thời và cụ thể những chuyện về người thật, việc thật ở từng địa phương, những sự kiện có ý nghĩa trong đời sống nhân dân.
Vè có từ bao giờ? Chưa có cơ sở xác định nhưng người ta biết rằng vè nảy sinh chủ yếu trong thời kỳ phong kiến và phát triển nhất trong thời kỳ cận đại ở các thế kỷ XVIII, XIX, XX. Sự xuất hiện của vè là một bước tiến mới của văn tự sự dân gian. Vè xuất hiện để bổ sung cho lối kể truyện bằng văn xuôi một cách thể hiện mới có vần có nhịp, qua đó biểu hiện nội dung các vấn đề xã hội mà nhân dân muốn nêu lên.
Xã hội Việt Nam vào những năm 1936-1939, đa số nông dân không có ruộng đất, hoặc có ít ruộng, họ phải đi lãnh đất của địa chủ để cày cấy, hoặc đi làm thuê làm mướn. Đã khốn khổ về kinh tế, vật chất thiếu thốn lại còn bị nạn thiên tai bão lụt, dịch bệnh liên tiếp xảy ra. Năm 1937, nạn đói xảy ra ở khắp miền Bắc. Năm 1938 nạn đói xảy ra ở khắp ba miền ngay cả ở miền Nam như các tỉnh Bạc Liêu, Cà Mau, Rạch Giá, Cần Thơ, Châu Đốc, Long Xuyên người dân cũng bị đói khổ. Có thể bài “Vè kinh tế” nói trên xuất hiện vào khoảng thời điểm này, căn cứ vào nội dung mà bài vè truyền tải ta có thể xếp bài vè này vào nhóm “vè thế sự”.
Vè thế sự ghi nhận thực trạng đời sống nhân dân. Trong đó loại vè thế sự có giá trị hiện thực hơn cả là những bài đả kích ách thống trị của bọn thực dân, phong kiến. Từ những sự kiện cụ thể trong đời sống sinh hoạt, nhân dân bài vè đã cho người nghe thấy được những nguyên nhân xã hội dẫn đến cuộc sống khốn cùng. Nhìn chung, vè thế sự miêu tả rất sinh động cuộc sống nhân dân, phản ánh hiện thực xã hội nước ta dưới ách thống trị thực dân phong kiến.
Quay lại bài “Vè kinh tế” trong phần mở đầu:
Nghe vẻ nghe ve
Nghe vè kinh tế
Ngồi suy nghĩ xem trong cuộc thế
Thấy nhân dân kinh tế mà thương
Chẳng qua là Nam Việt vô Vương thảm thiết
Bài vè đã đi thẳng vào vấn đề, Nam bộ đã không còn “chủ quyền” mà nằm dưới quyền sinh sát của người Pháp. Điều này càng được khẳng định hơn ở các đoạn sau:
Đại Pháp cầm quyền chấp trưởng
Tưởng đâu Nam kỳ
Vui hưởng thái bình…
Để rồi kết thúc bằng cái nhìn hết sức chua chát và châm biếm sâu sắt:
…
Trong làng tổng người người xốn mắt
Bọn Hội tề, quan Chánh lớn
Động lòng chắc lưởi lắc đầu
Thế này qua năm tới lúa đâu mà nộp
Nhà nước hết lòng bảo hộ nhân dân!
Có những chi tiết trong bài “Vè kinh tế” mà khi đọc nó lại làm tôi liên tưởng đến một số tác phẩm văn học miêu tả bối cảnh xã hội lúc bấy giờ mà nhà văn Hồ Biểu Chánh là gương mặt tiêu biểu.
…
Mùa màng thất bát lính còn bắt buột
Thương hại cho lê dân đứt ruột
Đã lâm nguy lại gặp thêm cảnh ngặt nghèo
Thảm cho vợ con đói rách đùm đeo
Trốn bờ bụi mã tà còn kiếm bắt…
Phải chăng đây chính bức tranh tăm tối của kẻ cùng đinh mạt hạng Lê Văn Đó trong tác phẩm (Ngọn cỏ gió đùa), nghèo đến mức phải ăn trộm nồi cháo heo để cứu đói mẹ già và đàn cháu nhỏ, trải qua tù tội khổ ải.
Còn ở hai câu:
Dòm nhà nào cũng bữa đói, bữa no
Nhổ bông súng, móc củ co cũng còn dễ thở
Cũng đâu khác gì:
“cả nhà phải luộc rau cỏ mà ăn đỡ, chớ không có cháo mà ăn” (Ngọn cỏ gió đùa, trang 16). Cái đói đã làm tắt hẳn nụ cười hồn nhiên trên những gương mặt thơ ngây, lưu lại dấu tích thê thảm: “sắp nhỏ nhịn đói mặt mày vàng ẻo “( Ngọn cỏ gió đùa, trang 16).
Tác giả bài “Vè kinh tế”, một nghệ sĩ dân gian đã không bỏ qua chi tiết nào từ những cái rất chung, rất tiêu biểu đến những cái rất cụ thể mà hết sức chân thật như:
Một lần bão lụt năm Thìn
Đã hao tốn xứ mình vô hạn
Mùa màng thất bát
Giá lúa đồng sáu, đồng ba
Một đầu thuế tính ra là năm giạ
Qua năm Tuất điềm trời cũng lạ
Giá lúa sụt một giạ còn hai cắc ngoài
Biết làm sao đóng nổi lá bài
Đi làm mướn tối ngày có một cắc mấy…
Hay:
Chệt bán buôn bỏ phố trốn về Tàu…
Chính là đề cập đến chủ trương sử dụng lá bài Hoa kiều của Nhà nước Pháp quốc lúc bấy giờ vì tư bản Hoa kiều là những kẻ có đủ sức mua những hàng hóa của Pháp để bán lại ở Việt Nam.
Hoặc:
Lập bộ đất cắn răng mà chịu
Lỡ chân rồi khó liệu, khó lo
Dòm nhà nào cũng bữa đói, bữa no
Nhổ bông súng, móc củ co cũng còn dễ thở…
Chính là cách làm bần cùng hóa nông dân của nhà nước bảo hộ khiến họ phải bán ruộng đất cho địa chủ với giá rẻ.
Nhìn chung, mỗi bài vè có giá trị nghệ thuật khá độc đáo riêng của nó. Phần lớn các bài vè có vận mệnh ngắn ngủi, thời gian cần thiết để đạt tới một hình thức hoàn chỉnh, trau chuốt ít có được. Thế nhưng, bài “Vè kinh tế” này đã sống gần một thế kỷ dù có thể chỉ một mình má tôi nhớ đến nó. Xin cám ơn má đã cho con hiểu thêm giá trị của một loại hình văn học dân gian cũng như một lần nhìn lại bức tranh ảm đạm của nhân dân ta dưới ách thống trị trong thời kỳ Pháp thuộc.


Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét