Thứ Sáu, 30 tháng 1, 2009

Câu chuyện đầu năm


vietnamnet.vn


CẶP GIÒ GÀ CÚNG MÙNG BA


Ngày 30 tháng 4 năm 1975, gia đình tôi từ Sài Gòn hồi hương về Lộ Tẻ Ba xe, tức lộ Vòng Cung, thuộc huyện Ô Môn, tỉnh Hậu Giang lúc bấy giờ. Lúc này lộ Vòng Cung còn thưa thớt, hoang vắng lắm. Từ Liên tỉnh lộ 91 đi vào hai bên là năn, sậy và những bãi lầy đầy lục bình. Mặt đường thì khúc khuỷu, lồi lõm, có đoạn bị đứt ngang dài cả một, hai chục mét. Còn cầu sắt Giáo Dẫn, cái ranh giới giữa hai xã Phước Thới và Tân Thới đã mất sạch ván lót, chỉ còn trơ lại khung sắt mà mỗi lần đi qua tôi đều hồi hộp thót tim vì sợ rớt xuống sông. Xóm tôi nằm phía trong cầu sắt Giáo Dẫn, ngoại trừ ngôi nhà đúc của cậu Sáu, còn lại đều là nhà lá. Cả xóm cũng chỉ độc nhất nhà cậu có chiếc TiVi trắng đen đời cũ, có 4 chân đứng và hai cánh cửa kéo ra, kéo vào. Dân ở đây mê cải lương lắm, mỗi khi nghe tiếng máy đèn nổ xình xịch là gần như cả xóm có mặt, kẻ bưng đèn cốc, người đi thầm kéo đến chật cả khoảng sân phơi lúa phía trước.
Vào thời điểm những năm cuối thập niên 70 nền kinh tế của nước ta đang ở vào giai đoạn cực kỳ khó khăn, giai đoạn của phân phối, của sổ mua hàng. Những người dân cố cựu ở đây họ sống bằng thửa ruộng, mảnh vườn của mình. Có thể không giàu lên được nhưng cũng không đến nổi phải đói khổ. Trong khi gia đình tôi hoàn toàn xa lạ với công việc nầy. Mấy công ruộng bà ngoại cho chẳng làm gia đình tôi đủ gạo ăn ngày hai bữa. Tôi nhớ lần đầu tiên ra ruộng làm cỏ lúa, tôi đã giật mình hoảng hốt khi thấy một công ruộng lớn đến như vậy và ngay cả việc phân biệt cây lúa với cọng cỏ đối với tôi cũng chẳng dễ dàng gì.
Tôi không thể nào nhớ hết bao nhiêu công việc không tên mà má tôi đã làm để hàng ngày mang về nhà 1, 2 lít gạo cho mấy anh em tôi no lòng. Từ việc làm bánh bán rong trên các nẽo đường quê, đến mua đi bán lại các loại hàng cấm như gạo, thịt, thuốc tây của thời ngăn sông cấm chợ. Đoạn đường từ nhà tôi ra đầu lộ dài hơn 3 Km lúc ấy rất khó đi, chưa nói có thể rơi xuống cầu sắt Giáo Dẫn bất cứ lúc nào nếu sơ sẩy. Vậy mà hàng đêm má tôi phải đội trên đầu hai, ba chục lít gạo đi bộ ra đầu lộ đón xe đi Cần Thơ khi gà chưa gáy bận một. Bao nhiêu mồ hôi, nước mắt của má tôi đã đổ xuống mà đói vẫn hoàn đói. Đứa em trai thứ bảy của tôi đoạt giải nhất cuộc thi giỏi văn cấp huyện, chỉ vì không có 25.000 đồng đóng cho trường nên đã không được đi thi cấp tỉnh.
Ngày thường đã vậy, Tết đến càng khốn khổ hơn, tuy không phải đến mức thiếu ăn thiếu mặc nhưng trong những ngày đầu năm ấy tôi thấy rõ sự khổ sở trong ánh mắt ba má mình. Thì cũng thịt kho, cũng bánh tét (thịt có được từ chia lúa, nếp do mấy ông cậu cho), không hiểu sao mỗi khi nuốt vào miệng tôi thấy như đang nuốt cả nước mắt của đấng sinh thành. Duy có một điều tôi nhớ rất rõ là gần như cả quảng thời gian ấy nhà tôi chưa bao giờ cúng mùng 3, không phải ba má tôi không biết phong tục ấy mà chỉ vì một lẽ rất đơn giản là không có tiền.
Một thời gian sau đó tôi đã rời gia đình để tìm cho mình một công việc, suốt trong thời gian xa nhà tôi không còn nhớ gì đến Sài Gòn, nơi tôi sinh ra và có 18 năm lớn lên, mà thay vào đó là hình ảnh ngôi nhà nhỏ nằm cặp tuyến lộ Vòng cung, nơi có ba má tôi và mấy đứa em nhỏ đang sống vất vả, khổ cực. Mỗi chuyến tôi về thăm nhà không phải vào dịp lễ lạt, tết nhất, mà là khi nào có có chút đỉnh tiền. Lần nào cũng vậy, trước khi bước vào nhà tôi lại ngước nhìn lên phía trên cánh cửa, nơi má tôi treo mấy trái cau Tầm Vung và lá bùa dựng nêu. Nếu ở đó có cặp giò gà khô, có nghĩa là ngày mùng 3 tết vừa qua nhà tôi có tiền mua gà cúng ông bà. Nhiều năm liền như vậy, tôi mong muốn được trông thấy cặp giò gà ấy biết bao mà không có.
Mấy chục năm trôi qua, em trai thứ bảy của tôi nay đã là giám đốc một công ty tầm cỡ ở TP. Hồ Chí Minh; phần tôi cũng đã có gia đình yên ấm ở Cần Thơ. Cứ đến ngày mùng 3 tết hàng năm tôi lại nhớ đến cặp giò gà cúng mùng ba như nhớ đến một quảng thời gian không thể nào quên trong cuộc đời.

Mùng 3 Tết Kỷ Sửu 2009

Thứ Ba, 20 tháng 1, 2009

BÚT KÝ

(Chị Việt Nga khi còn là học sinh trường Lý Tự Trọng)


(Chị Phạm Thị Việt Nga - Tổng giám đốc Cty Cổ phần Dược Hậu Giang)


“HẠT GIỐNG ĐỎ” TỎA HƯƠNG!


(Giải II - không có giải I -cuộc thi Bút ký văn học TP. Cần Thơ 2006)


Viết về chị thật khó!
Tôi thật sự không biết phải viết về chị như thế nào. Bởi lẽ, trong tay tôi là ngồn ngộn những tư liệu với đủ các thể loại báo chí, văn học mà nội dung của nó đều có chung một điểm đến là Chị: Anh hùng lao động, Dược sĩ, Tiến sĩ kinh tế Phạm Thị Việt Nga, Tổng giám đốc Công ty cổ phần Dược Hậu Giang.
Nói về sự thành công của Dược Hậu Giang trên thương trường ư? Đã có rất nhiều bài viết in trang trọng trên những tờ báo, mà “măng – sét” của nó đủ đảm bảo cho những gì tác giả muốn chuyển tải đến bạn đọc. Hơn nữa, chính tự thân Dược Hậu Giang với sự tin cậy của người tiêu dùng, đã là một minh chứng hết sức thuyết phục.
Viết về cá nhân chị ư? Hẳn rồi! Nhưng... tôi sẽ viết về điều gì đây?!
Viết về danh hiệu “Anh hùng Lao động” thời kỳ đổi mới hết sức cao quý mà Nhà nước đã trao tặng cho chị, cùng nhiều danh hiệu mang tầm khu vực khác ư? Hay viết về tấm lòng luôn hướng về người nghèo, về những số phận bất hạnh mà chuyện “mổ heo” ngày 1-9-2006 vừa qua là một ví dụ? Có quá nhiều điều để nói về chị! Để có một bài báo hay! Tuy nhiên, cái làm tôi quan tâm hơn cả lại nằm ở một “phạm trù” hoàn toàn khác. Đó là: “Điều gì đã khiến chị có những quyết định “không giống ai”! Những quyết định mà một giám đốc doanh nghiệp Nhà nước “khác” có thể sẽ không quan tâm, vì nó không làm tăng hoặc giảm uy tín (chỉ mới nói về “uy tín” thôi!) của họ”. Thế nhưng, chị đã làm! Và chính cái “không giống ai” đó đã đưa tôi đến với một địa chỉ khá “đặc biệt”, nơi đào tạo những “hạt giống đỏ” của cách mạng trong thời kỳ chiến tranh ở miền Tây nam bộ.
Vào thập niên 60 của thế kỷ trước, khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước ở vùng ĐBSCL ngày càng phát triển, các vùng căn cứ lõm của Khu và một số tỉnh cũng mở rộng theo yêu cầu thực tế; các cơ quan, đơn vị lực lượng võ trang ngày một nhiều hơn. Tình hình mới đòi hỏi cán bộ, nhân viên (cả cán bộ, chiến sĩ trong quân đội) phải có trình độ học vấn tương đối nhằm đảm đương nhiệm vụ. Từ đó, Khu ủy Khu Tây Nam Bộ chủ trương xây dựng Trường Phổ thông nội trú Lý Tự Trọng dạy văn hóa cấp 1, 2 (hệ 10 năm) trong vùng căn cứ kháng chiến cho con em cán bộ của Khu và Tỉnh. Trong suốt thời gian tồn tại, trường đã đào tạo 9 khóa học, với khoảng 700 em học sinh (từ năm 1964 đến năm 1975). Biết bao lần trường bị máy bay Mỹ bắn phá hư hại, thậm chí đã bị phá hủy hoàn toàn. Nhưng sau đó đã được đồng bào, các thầy, cô cùng các em học sinh dựng lại, để công việc trồng người lại xanh tươi dưới mưa bom, bão đạn.
Nhà giáo ưu tú Hồ Thanh Khôi, nguyên hiệu trưởng trường Lý Tự Trọng nhớ lại: “ Trường Lý Tự Trọng không giống như những trường ở miền Bắc hay đô thị miền Nam lúc bấy giờ với: mái ngói, tường vôi... hay phượng nở đỏ sân trường, áo dài trắng tung bay. Mà trường của chúng ta núp dưới những bóng dừa hoặc cây bình bát, những lớp học giản dị, đơn sơ, mộc mạc. Thầy trò vừa lao động trong dân, mò cua, bắt cá, cấy lúa, trồng khoai, tham gia công việc đồng áng như những bà con nông dân thực thụ, để vừa học vừa làm, để kiếm tìm từng con toán, bài văn, chắt chiu dưới ánh đèn dầu đêm đêm, để lớn lên qua từng trang sách vở...
Có nhiều em chưa học xong một cấp, một chương trình, theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc chia tay bè bạn lên đường chiến đấu và cũng có một số em “trốn học” đi bộ đội, một kiểu “vô kỷ luật” rất độc đáo... Tôi nghĩ, ít có một trường nào trên đất nước nầy với số lượng học sinh không đông lắm, ở một độ tuổi rất nhỏ như thế mà trong chiến tranh chống Mỹ, đã đóng góp cho đất nước hàng trăm liệt sĩ ở lứa tuổi gọi là “trẻ con”. Tuy học tập lao động trong gian khổ nhọc nhằn, trong khó khăn thiếu thốn nhưng các em đã trưởng thành trong hòa bình, góp phần rất lớn trong công cuộc đổi mới, trở thành những cán bộ, đảng viên ưu tú như: Chủ tịch HĐND TP. HCM Phạm Phương Thảo, Trung tướng Phạm Hồng Lợi, Phó Tổng tham mưu trưởng QĐNDVN; đạo diễn Nguyễn Việt Hùng – giám đốc hãng phim TFS TP. HCM; Vụ trưởng Ban Dân vận TW Lê Trí Dũng... Và còn nhiều, rất nhiều những em đang giữ những cương vị lãnh đạo, quản lý chủ chốt của đất nước chúng ta”.

Thế với chị Phạm Thị Việt Nga, vị Tổng giám đốc khả kính của chúng ta thì sao?! Hãy nghe đôi dòng tự sự của chị: “...Tất cả chúng tôi đều có chung một hoàn cảnh, thiếu tình thương cha mẹ do phải đi kháng chiến, tất cả những nơi xuất thân trước khi đến trường đều là nơi cha mẹ gởi. Và, chính điểm chung ấy, đã cột chặt chúng tôi lại, đứa lớn chăm sóc đứa nhỏ, cha mẹ gởi tiền chia nhau mua bánh in ăn, mua pin nhuộm quần áo, mua bột củ năn khuấy ăn... Rồi cùng nhau đi cấy, bứt dây chọi bán, mót lúa bán mua máy may, mua heo, mua tập vở...
Ngày ấy, không có báo đài, không có truyền hình, không có những buổi học chính trị mà chỉ có những đêm thầy kể chuyện miền Bắc XHCN, kể chuyện về Bác Hồ, bạn bè kể cho nhau nghe về chuyện chiến đấu của quê hương mình, của cha anh mình! Thế mà nó thấm sâu tận xương tủy chúng tôi một lý tưởng cách mạng. Ngày ấy, không ai dạy chúng tôi xã hội hóa giáo dục, lấy dân làm gốc mà chúng tôi lại biết giữ em, mò cá, nấu cơm cùng ăn, cùng ở với dân, tuổi quá nhỏ để hiểu đường lối quần chúng của Đảng, nhưng chúng tôi biết được rằng: dân không thương là không có chổ ở, không có cơm ăn, không yên ổn đi học. Ngược lại, mỗi gia đình đều xem chúng tôi là con,là cháu của họ. Họ chăm sóc dạy dỗ và rầy la như bao nhiêu con cái trong gia đình...”.
Viết đến đây, có một điều gì đó khiến tôi chợt nhớ đến câu nói của Nhà nghiên cứu Trần Bạch Đằng: “Việc tôi hoạt động cách mạng sớm cũng dễ hiểu: gia đình tôi như thế, tôi phải như thế, không khác được” – (trang 61) – Trần Bạch Đằng – Cuộc đời và ký ức”. Ở nhà nghiên cứu Trần Bạch Đằng, những gì ông cống hiến, đóng góp cho cuộc đời chúng ta đã rõ. Còn với chị Phạm Thị Việt Nga thì sao? Chị Nga cũng thế! Không khác được. Chị đã sinh ra trong một gia đình có truyền thống cách mạng, đã tham gia kháng chiến chống Mỹ từ rất nhỏ, đã vào sinh ra tử; đã lội bộ đường Trường Sơn ra miền Bắc học tập, đã bước vào, ra cổng trường đại học, rồi trên đại học và là một trong vô vàn chiến sĩ trên mặt trận không có tiếng súng, mà sự cạnh tranh ác liệt trên thương trường cũng không kém phần khắc nghiệt. Thế nhưng, vượt lên trên chuyện “số phận” một người được sinh ra, trưởng thành trong chiến tranh như hàng triệu người Việt Nam yêu nước khác. Điều tôi muốn nói ở đây là “cái gì” đã giúp chị đứng vững (cả trong thời bao cấp dẫy đầy khó khăn, bó buộc lẫn thời kinh tế thị trường cởi mở nhưng không ít biến động chết người). Trong khi có không ít người, quá trình phấn đấu cũng không hề kém cạnh, lại thất bại, thậm chí gục ngã?!
Phải chăng, đó chính là những lời gởi gắm nỗi lòng của người cha đi kháng chiến, tình cờ gặp đứa con gái nhỏ của mình trên đường công tác: “Công tác giữa đường đón gặp con. Mừng trẻ nên người chóng lớn khôn. Nghĩa dân nuôi dưỡng so dường bể. Ơn Đảng luyện rèn sánh tựa non. Cha đáp ơn sâu bền dạ sắt. Con đền ơn Đảng chặt lòng son. Xoa tóc, cha khuyên con cố gắng. Cuối đầu con hứa lập nhiều công. – (Ghi lại theo chị Việt Nga – bài thơ của thân phụ: Ông Phạm Trọng Yêm). Hay còn vì một điều gì đó sâu xa hơn, mà những người theo nghề viết lách như tôi hay cả nghĩ?!
Năm 1988, chị Việt Nga nguyên Giám đốc Công ty Cung ứng Vật tư Thiết bị Y tế Cần Thơ, được điều về nhận chức giám đốc Xí nghiệp Liên Hợp Dược Hậu Giang. Cơ ngơi của xí nghiệp lúc bấy giờ chỉ là một khu nhà xưởng tẹp nhẹp, công nhân chỉ sản xuất bằng “tay” với một vài chiếc máy thủ công nho nhỏ còn sót lại từ “bưng biền”. Nhiều người quen biết đã nói với chị nên “dẹp” xí nghiệp đi là vừa! Nghỉ sản xuất... lấy danh nghĩa xí nghiệp nhận thuốc về bán là xong! Thật ra, tất cả những lời khuyên ấy đều rất chân tình và chí lý. Thời bao cấp chuyện khai tử một cơ quan Nhà nước chẳng có gì mà ầm ĩ, và vị lãnh đạo cũ sẽ được điều về làm giám đốc một cơ quan mới (biết đâu sẽ nhàn tản và no ấm hơn?!). Chị Nga đã “không” muốn như vậy! Theo suy nghĩ của tôi, đây là một trong những điều “không giống ai” của chị.
Mà đúng là không giống ai thật. Ai đời! Xí nghiệp Dược lại làm “ngoại hối”, rồi kéo “quân” lên Mộc Hóa (Long An) trồng tràm, trồng xã. Ừ! Cứ cho là trồng tràm, trồng xã để lấy tinh dầu đi. Nhưng chuyện lên Phước Long trồng tiêu, trồng điều; rồi về Bạc Liêu nuôi tôm, để rồi ngậm ngùi nhìn 60 triệu đồng trôi ra biển thì thiệt là! Chị Nga đã không hành xử như người đứng đầu một cơ quan Nhà nước, mà chị như một người mẹ nghèo khó phải tần tảo, quơ quào bằng mọi cách cho đàn con mình được no ấm (có người mẹ nào bỏ con mình được bao giờ!).
Năm 1988, giá trị tổng sản lượng của xí nghiệp chỉ đạt 3 tỷ đồng. Cả một thời gian dài “xoay xỏa” đủ nghề vẫn không khá lên được, hơn 300 công nhân là hơn 300 gương mặt lầm lũi như người cơ nhỡ, ám ảnh chị Nga trong từng giấc ngủ. Có thể, xen kẻ những hình ảnh chập chờn nửa đêm về sáng của chị lúc ấy, có cả bóng dáng bạn bè một thời ở rừng đi học; có giọt nước mắt khóc bạn hy sinh khi tuổi đời còn rất trẻ; có cả nỗi thòm thèm áo ấm, cơm no; có sự sẻ chia củ co, bông súng... Để rồi cái câu hỏi: Tiếng súng đã dứt lâu rồi, vẫn nghèo, vẫn đói hay sao?! Vẫn trở đi, trở lại trong đầu người nữ giám đốc. Phải chăng, chính cái tinh thần tập thể, một người vì mọi người mà chị được giáo huấn trong điều kiện thực tế hết sức khắc nghiệt thời chiến tranh, như một kim chỉ nam đã trở thành máu thịt, dẫn đường cho chị bước tới?! Và phải chăng chính từ sự khắc nghiệt của máu lửa đạn bom đã sản sinh ra lòng kiên định, ý chí quật cường, quyết không lùi bước trước khó khăn, đã vực chị đứng dậy?!
Tôi chưa có điều kiện tiếp xúc nhiều với chị, cũng như không đủ “độ” thân tình để có thể hỏi: “Quyết định nào là khó khăn nhất trong cuộc đời của chị?”. Thời chiến, chị còn “nhỏ nhít” không nói làm gì! Năm 2006, quyết định của vị Tổng giám đốc Công ty Cổ phần Dược Hậu Giang có thể làm thay đổi một “cục diện” nào đó, là điểm đến của báo chí trong và ngoài nước, liệu có khó khăn không?. Tuy nhiên, theo suy nghĩ chủ quan và nông cạn của tôi. Cái quyết định tinh giảm biên chế 69 người, ở thời điểm những năm cuối cùng của thập niên 80 thế kỷ trước, là quyết định đã lấy đi của chị không ít nước mắt. Giọt nước mắt của người mẹ tủi phận nghèo, không nuôi nỗi đàn con, phải gởi đậu, gởi nhờ “chạy đồng” qua bữa.
Tinh giảm biên chế (tạm thời, sau đó đã nhận lại tất cả) cho phù hợp tình hình sản xuất thực tế của xí nghiệp. Chị Nga vay tiền ngân hàng mua máy đóng nan, thiết bị tiên tiến đầu tiên của xí nghiệp để sản xuất thuốc kháng sinh (viên con nhộng). Tuy nhiên, những mặt hàng thuốc của Xí nghiệp Liên Hợp Dược Hậu Giang lúc bấy giờ (những năm đầu thập niên 90) hoàn toàn không được thị trường biết đến. Để bán được thuốc chị Nga đã phải chấp nhận mang “nhãn mác” một đơn vị khác ở TP. HCM; một kiểu “hồn Trương Ba – da hàng thịt” và như vậy, đương nhiên phần lãi: “da” sẽ nhiều hơn “hồn”.

*
* *

Năm 2006, sản phẩm của Dược Hậu Giang đã có mặt và được sự tin dùng ở 98% các bệnh viện lớn của hầu hết 64 tỉnh, thành trong cả nước. Giá trị tổng sản lượng tăng theo tỷ lệ thuận với thời gian: năm 1996 là 246 tỷ, năm 2000: 279 tỷ; đến năm 2004 là 421 tỷ, năm 2005 trên 500 tỷ; riêng năm 2006 đã đạt 800 tỷ. Nộp ngân sách Nhà nước năm 1996 là 6,4 tỷ, đến năm 2004 đã lên đến 12,4 tỷ đồng. Thu nhập bình quân đầu người năm 1996 là 1.600.000 đồng/người/tháng, thì năm 2005 đã tăng lên 4.900.000 đồng/người/tháng. Như vậy, Dược Hậu Giang đã tự hào và hết sức xứng đáng là thành viên CLB 500 tỷ của doanh nghiệp cả nước.
Tại Hội nghị tổng kết “Thập niên chất lượng lần thứ nhất 1996 – 2005” tổ chức tại Hà Nội năm 2005. Dược Hậu Giang và TS. Phạm Thị Việt Nga – Tổng Giám đốc Công ty, đã vinh dự được Sở Công nghiệp TP. Cần Thơ xét chọn là doanh nghiệp tiêu biểu. Trong bài tham luận phát biểu tại hội nghị chị Nga đã nói: “Có được những thành công như hôm nay, Dược Hậu Giang đã trải qua nhiều thăng trầm, nhiều sự trả giá, nhiều kinh nghiệm quản lý...”.
Năm 1992, những viên thuốc mang “mác” Dược Hậu Giang xuất hiện trên thị trường. Lần đầu tiên mang sản phẩm “Bắc tiến” tham gia một kỳ hội chợ, Dược Hậu Giang thất bại thảm hại! Nói theo ngôn ngữ quân sự, đoàn quân của nguyên soái Phạm Thị Việt Nga, thua tả tơi không còn manh giáp. Thiên hạ thì dập dìu tài tử giai nhân, còn mình “chùa Bà Đanh...” mưa phùn, gió rét. Lượng sức mình không đủ cho cuộc “tao ngộ chiến”, chị Nga quyết định áp dụng “chiến thuật du kích”. Chị cho hai nhân viên thuê một xe Honda, mang thuốc trực tiếp đến ký gởi các hiệu thuốc của ba mươi sáu phố phường Hà Nội; đến các nhà dân năn nỉ họ “xài thử”... Vậy rồi! Người lại nhớ đến Dược Hậu Giang mới ghê chứ! Nói vui một chút! Thật ra, để có được thương hiệu Dược Hậu Giang “nổi đình đám” như ngày hôm nay, chị Nga và các cộng sự của mình đã đổ biết bao tâm huyết, mồ hôi, nước mắt. Đó là những bước chân rã rời trên các con đường đất đỏ miền cao, mang quà Xuân và sản phẩm Dược hậu Giang đến với đồng bào dân tộc; đó là những lần hành quân về nguồn khám, chữa bệnh, phát thuốc miễn phí cho bà con vùng sâu, vùng xa; đó là chương trình “Thầy thuốc với mọi nhà” được phát sóng hàng tháng trên Đài Truyền hình Cần Thơ, mà chị Nga luôn là “chủ xị”; đó là “Chi hội bảo trợ bệnh nhân nghèo Dược Hậu Giang” được thành lập ngày 2-9-2002, đến nay đã đóng góp trên 2,5 tỷ đồng (trong ngày mổ heo vì bệnh nhân nghèo nhân kỷ niệm 32 năm ngày thành lập xí nghiệp Dược Hậu Giang 2/9/1974 – 2/9/2006, đã quyên góp được 559 triệu đồng, riêng CB,CNV công ty đóng góp trên 400 triệu đồng); đó là phần mềm “Hospital” dùng để quản lý mạng cho các bệnh viện, đơn vị y tế do Công ty Cổ phần Dược Hậu Giang thiết kế, bao gồm 12 mô-đun cụ thể quan trọng như: quản lý dược, viện phí, hồ sơ nhập viện, tiếp nhận bệnh, ra toa thuốc, báo cáo sổ sách của ngành y tế... giúp việc quản lý các bệnh viện chặt chẽ và hiệu quả hơn.
Việc quảng bá thương hiệu trong thời kinh tế thị trường hiện nay có thể nói là “thiên hình vạn trạng”. Dược Hậu Giang cũng đã đạt được điều mình mong muốn. Riêng tôi không hiểu sao giữa bao nhiêu là panô cao ngất trời, sắc màu rực rở; những gian hàng lộng lẫy với các chú rối xinh xinh, tiếng nhạc xập xình lôi cuốn... thì hình ảnh một chiếc ghe chèo len lỏi qua các kênh rạch, trên ấy có cô mậu dịch viên và sản phẩm của Dược hậu Giang (tôi đã thấy trong một phim tài liệu trên đài truyền hình). Rồi “túi thuốc gia đình”, một cái bọc nho nhỏ đựng vài thứ thuốc cần thiết thường dùng, đã gây cho tôi một ấn tượng hết sức sâu sắt. Phải là người rất Nam bộ, am hiểu mọi ngóc ngách cuộc sống nông thôn miền sông nước, mới thấy “chiếc ghe hàng” cần thiết thế nào trong sinh hoạt hàng ngày (xin phép được hỏi: phải chăng chị đang thấy lại hình ảnh một cô bé đang ngồi đợi ghe hàng dưới bến để mua bánh in chia cho bạn bè?). Còn “túi thuốc” thì đúng là thật gần gũi, giản dị với những người tay lấm, chân bùn (con nhà nghèo chuyện có một tủ thuốc gia đình đẹp đẻ, đúng quy cách nói thật là hơi khó và cũng xa xỉ quá). Nó gợi nhớ trong tôi hình ảnh “ruột tượng” đựng gạo của người chiến sĩ; là chổ mẹ dành dụm chút tiền nuôi con ăn học. Tôi chắc rằng cái làm người ta nhớ đến Dược Hậu Giang lâu hơn, khó quên hơn vì một lẽ đời rất đơn giản: đến với nhau trước hết vì tấm lòng.
Hiện nay, Công ty Cổ phần Dược Hậu Giang đã là cánh chim đầu đàn của ngành Công nghiệp Dược Việt Nam về cả sản lượng cũng như chất lượng. Ở tất cả các tiêu chuẩn quốc tế như: Thực hành sản xuất thuốc tốt (GMP), Thực hành bảo quản kho tốt (GSP), Thực hành phòng thí nghiệm tốt (GLP), Hệ thống quản lý chất lượng ISO 9001 phiên bản 2000 đều đạt yêu cầu. Riêng phòng Kiểm nghiệm được công nhận phù hợp theo tiêu chuẩn TCVN ISO/IEC 17025: 2001. Sản phẩm của công ty 10 năm liền được người tiêu dùng bình chọn là Hàng Việt Nam chất lượng cao (luôn đứng trong Top 5 ngành hàng Dược phẩm), ngoài ra Dược Hậu Giang còn nằm trong danh sách 100 thương hiệu mạnh doanh thu dẫn đầu ngành Dược Việt Nam. Mạng lưới phân phối của công ty trải dài từ Bắc chí Nam, vươn ra một số nước láng giềng như: Lào, Campuchia, Trung Quốc, Moldova... nhiều loại thuốc kháng sinh đặc trị như: Haginat, Klamentin, dòng thuốc giảm đau – hạ sốt Hapacol... “đủ sức” thay thế thuốc ngoại nhập với giá thành thấp hơn rất nhiều.
Để nói được hết những gì mà chị Phạm Thị Việt Nga và Dược Hậu Giang đã làm được “cho hôm qua, cho hôm nay, cho muôn đời sau”, chắc tôi phải chuyển sang viết “tiểu thuyết”, chứ phạm vi một bài bút ký thì khó lòng “cáng đáng” nổi. Thôi thì, ghi nhận 9 thành tựu nổi bậc của Dược Hậu Giang trong năm 2005 như một minh chứng. Đó là những thành tựu về: Hệ thống phân phối - Hệ thống chất lượng - Phát triển nguồn nhân lực - Hệ thống tài chánh - Hoạt động Maketing - Công tác nghiên cứu khoa học - Đầu tư cho hệ thống bệnh viện - Hoạt động xã hội và Thập niên chất lượng. Đã cho thấy tầm nhìn chiến lược và sự chuẩn bị hội nhập vào WTO của ban lãnh đạo Dược Hậu Giang một cách đầy đủ và hết sức chu đáo. Như chính đề tài: “Một số biện pháp nâng cao hiệu quả cạnh tranh của các xí nghiệp Dược quốc doanh Việt Nam” mà chị Nga đã bảo vệ thành công trong luận án tiến sĩ của mình.
Trong đêm mổ heo vì người nghèo 1-9-2006, ông Nguyễn Tấn Quyên, Ủy viên Trung Ương Đảng, Bí thư Thành Ủy TP. Cần Thơ đã nói: “Chăm sóc cộng đồng là nét văn hóa riêng của Dược Hậu Giang...”. Đây là điều mà không một ai có thể phủ nhận. Với chị Nga, cô học trò nhỏ của trường Lý Tự Trọng năm xưa, đã “bươn chải” để học tập và cống hiến trong cuộc đời, bằng những hành trang vô giá mà Đảng và Nhà nước đã trang bị cho chị từ khi còn ấu thơ. Càng trưởng thành, cái “cung bậc” văn hóa ấy lại càng được nhân rộng, lan tỏa, thấm đẫm đến mọi người chung quanh và toàn xã hội.
Tôi đã không dưới một lần “nằm vắt tay lên trán”, ngẫm nghĩ về cụm từ “Sứ mạng Dược Hậu Giang”. Thông thường, hai chữ “sứ mạng” hay được những người viết lách đặt vào tình huống “sống – chết”, có nghĩa để đạt được điều mình mong muốn “có thể hay chắc chắn!” là phải đánh đổi cả sinh mạng. Và, với chị Phạm Thị Việt Nga, thì tôi hiểu rằng chị đã đặt “Sứ mạng Dược Hậu Giang” qua lời cam kết: “Dược Hậu Giang cam kết cung cấp sản phẩm và dịch vụ chất lượng cao, đáp ứng tốt nhất nhu cầu bảo vệ sức khoẻ vì hạnh phúc của mọi người”. Chính là những gì chị luôn hướng tới và phấn đấu “bằng sống – bằng chết”.
Bởi lẽ, đó không chỉ là lời hứa của vị Tổng giám đốc một đơn vị sản xuất Dược phẩm – loại hàng hóa đặc biệt gắn liền với sức khỏe con người; mà đó còn là bổn phận và nghĩa vụ của cô học trò nhỏ với các má, các chú bác, anh, chị đã cưu mang cô một thời đạn bom, lửa đạn, nay vẫn còn biết bao khó khăn, thiếu thốn ở Rạch Gốc, ở kinh Đường Cuốc... xa xôi. Và, đó cũng là lời hứa với người cha kính yêu của chị: “Cuối đầu con hứa lập nhiều công” trong một chiều chiến dịch năm nào.
Và chị đã làm được!


Chủ Nhật, 18 tháng 1, 2009

CHUYỆN NGHE Ở VỈA HÈ

Tượng thờ Bao Công
Các loại đao trảm của Bao Công


BAO CÔNG Ở VIỆT NAM!



- Chú Hai! Có chuyện gì mà coi bộ chú trầm ngâm dữ vậy?
- Ê! Năm, phải chi mình có cổ máy thời gian, để quay về quá khứ như con mèo máy Đôrêmon hén!
- Chi vậy? Bộ chú tính làm mình trẻ lại để kiếm thêm phòng nhì hả?
- Cái thằng bậy bạ! Tao muốn quay về quá khứ là để kiếm ông Bao Công ở tận bên Tàu lận kìa!
- Cha! Xa dữ hén! Bộ chú có gì oan ức hay sao mà phải “thân gái dặm trường” đến phủ Khai Phong vậy?
- Oan ức cái gì! Tao muốn gặp ông quan mặt sắt ấy một lần, để tỏ lòng kính phục cái sự hết mình vì công lý, sẵn sàng lấy cái chết để giành lấy lẽ phải “quan phạm tội như thứ dân” ấy!
- Ủa! Bộ nước mình hết chuyện nói rồi sao? Mà chú Hai phải “lan can” cái chuyện tận bên Tàu vậy?
- Hết cái gì? Nhiều nữa là đằng khác! Nhưng hôm qua xem phim “Tân Bao Thanh Thiên” trên Tivi, chổ Bao Công xử án quý phi Nhạc Minh Châu… tao khoái quá chừng.
- Ông đó thì ai phạm tội mà ổng hổng trảm, phò mã, thừa tướng… lớ quớ là coi chừng.
- Tao khoái là vì ổng chém đầu bà quý phi đó ngay trước mặt nhà vua. Ai đời, đã là thiên tử mà phải bó tay, nước mắt ròng ròng nhìn người đàn bà yêu dấu của mình “tử ẹo”. Đã là đã ở chổ đó! Phải chi mấy ông tòa án xứ mình, có được một chút dũng khí của cái ông xấu hoắc đó!
- Ai nói với chú Hai mấy bác tòa nhà mình thiếu dũng khí?!
- Thì vụ án đất đai ở Thị xã Đồ Sơn, TP. Hải Phòng sờ sờ ra đó mầy hổng thấy à? Ai đời, từ một vụ như cái đình, hổng biết “ngâm cứu”, kiểu gì mà cuối cùng khi đưa ra xét xử chỉ còn nửa cọng chân nhang.
- Cái nầy chưa chắc là “tại” mấy bác tòa đâu chú ơi! Chú không thấy báo Tuổi Trẻ viết “UBND TP. Hải Phòng giải cứu tội phạm” đó sao?
- Ừ! Thì cứ cho UBND TP. Hải Phòng là vua đi, sao tòa án không là Bao Công “một lần” cho thiên hạ được nhờ?
- Nhờ được mới là lạ! Ông Bao Công trong phim của chú, nếu xuất hiện vào đầu thế kỷ 21 nầy, nếu ổng ở Việt Nam và cầm cán cân công lý ở Hải Phòng, hổng chừng đám cháu, chít của tui với chú sẽ biết thêm một câu chuyện về quan tham “mặt lọ”.
- Mầy nói cái gì mà quan tham?
- Thì đó, chú coi nè! Ai đời cấp đất tái định cư cho dân, mà “qui hoạch” 25% đất dành cấp cho cán bộ lãnh đạo thị xã và 10% đất dành riêng cho việc “đối ngoại”…Rồi nguyên tắc cấp đất vạch rõ: cấp trưởng trước, cấp phó sau; lâu năm trước, ít năm sau…
- Tội nghiệp! Mấy ông lãnh đạo ở Đồ Sơn từ trước đến giờ hổng có nhà, chắc mấy ổng “lắc ghe” không hà!
- Chưa hết, đâu phải chỉ mỗi một dự án nầy là lùm sùm. Hải Phòng còn tới 15 dự án “bùng nhùng” có liên quan tới đất đai thời kỳ 2001 – 2004, khi ông Chu Minh Tuấn là giám đốc sở Tài Nguyên – Môi Trường. Người đã được tòa án miễn truy cứu trách nhiệm hình sự đó.
- Liên quan như thế nào, mầy nói tao nghe coi!
- Thì đây, theo kế hoạch được duyệt, đối tượng được giao đất chủ yếu là người dân của xã Dư Hàng Kênh và huyện An Hải, nhưng trên thực tế hầu hết đối tượng được giao đất đều là cán bộ các ban, ngành của Thành ủy, HĐND và UBND TP; trong đó 420 hộ thuộc các cơ quan của thành phố, 35 hộ củaViện Quy hoạch, 152 hộ của huyện An Hải… Biết đâu, trong số nầy có cả bác Bao Công?!
- Thôi! Thằng Năm mầy hãy để ông Bao Công mồ yên mả đẹp. Nói tới, nói lui ảnh hưởng hình tượng “long đầu trảm”!

KỊCH NGẮN



CON CU MỒI

NHÂN VẬT:


1. BÁC HAI 65 tuổi
2. VỢ BÁC HAI 60 tuổi
3. TÁM TUỒNG 47 tuổi - Phó Chủ tịch xã
4. HAI HÙNG 45 tuổi - Con thứ hai chú Ba Tam
5. VỢ HAI HÙNG 40 tuổi
6. ÚT THẮM 32 tuổi - Con gái út chú Ba Tam
7. HẰNG 25 tuổi - Con út bác Hai
8. TƯ TỬNG 42 tuổi - Hàng xóm

CẢNH I

( Một buổi sáng tại nhà bác Hai, cảnh trang trí như những gia đình có của ăn của để ở nông thôn. Chính diện là bàn thờ gia tiên, phía trên có một bộ tranh thờ. Giữa nhà là chiếc bàn dài, hai bên có 4 chiếc ghế dựa, trên bàn là bộ ấm tích uống trà, bên phải nhìn vào có bộ ván ngựa. Bên trái là một tủ ly, phía trên có chiếc TiVi 14 inch.)

VÀO KỊCH


- BÁC HAI: (Từ cửa buồng bước ra, bước lại chổ móc quần áo lấy chiếc khăn rằn khoác lên vai, miệng nói) – Bà ơi! Sao sáng nay không nghe nó kêu vậy bà?
- BÁC HAI GÁI: (Trả lời vọng từ phía trong) – Hả? Ông nói cái gì kêu?
- BÁC HAI: (Lẩm bẩm) – Cái bà nầy thiệt! Hỏi cũng như không, càng già càng lảng tai – (Vừa nói bác Hai vừa bước ra nhìn lên chổ đầu hồi nhà, rồi chợt kêu lên) – Ủa! Đâu mất rồi. Con Hằng đâu? Bây đem cái lồng treo chổ nào rồi hả?
- HẰNG: (Từ trong chạy ra) – Ba nói cái lồng nào?
- BÁC HAI: - Thì cái lồng con cu mồi của chú Ba bây đem về đây chớ còn cái nào nữa?
- HẰNG: - Con đâu có đem đi đâu! Mà mấy bửa trước con thấy anh Tư Tửng hỏi mượn ba để đi gác cu gì đó mà...
- BÁC HAI: - Thôi chết rồi! Chiều hôm qua thằng Tửng trả, tao máng ở nhà dưới thay nước cho nó rồi quên luôn. Đâu bây chạy xuống coi sao mà nó êm re vậy?
- HẰNG: - (Chạy xuống nhà dưới rồi nói vọng lên) – Không có ba ơi! Con có thấy gì đâu!
- BÁC HAI: - Hả! Con nói cái gì? Ai đem nó đi đâu rồi ? – (Vừa nói bác Hai vừa đi nhanh xuống nhà dưới).

(Bác Hai vừa đi ra thì Tám Tuồng – Phó Chủ tịch xã bước vào, ngó quanh quất không thấy ai anh ta buột miệng)

- TÁM TUỒNG: - Bác Hai ơi! Có nhà không bác Hai?
- BÁC HAI GÁI: - (Từ trong bước ra) – Ủa! Thằng Tám bây mới tới hả?
- TÁM TUỒNG: - Dạ! Con mới tới. Bác Hai trai có ở nhà không bác?
- BÁC HAI GÁI: - Có ! ổng mới chạy xuống nhà dưới đó. Bây ngồi uống trà đợi một chút ổng lên liền. – (Vừa nói bác Hai gái vừa đi vào trong gọi lớn) – Ông ơi! Có thằng Tám ủy ban tới nè.

(Bác Hai gái đi vào trong còn lại một mình Tám Tuồng, anh ta rót cho mình ly trà, nhấp một ngụm rồi đặt xuống ngó quanh quất. Bác Hai trai và Hằng đi vào, trên tay bác Hai là chiếc lồng chim trống không, bên ngoài lồng có cột một mảnh vãi trắng. Vừa bước vào bác Hai đã lên tiếng giọng bực tức)

- BÁC HAI : - Tổ cha nó quân đầu trộm đuôi cướp, chỉ mới quên một đêm thôi là đã mất rồi. – (ngó thấy tám Tuồng, bác lên tiếng) – Ủa! Thằng Tám bây mới tới hả?
- TÁM TUỒNG: - Dạ! Con mới tới. Mà bác nói mất cái gì?
- BÁC HAI: - Thì con cu mồi của chú Ba con Hằng tao đem về đây nuôi hỗm rày đó. Thằng Tư Tửng mượn đi gác mấy bữa, chiều hôm qua nó trả tao thay nước rồi máng luôn ở nhà dưới. Vậy mà sáng nay mất tiêu rồi, nó còn đem cái lồng ra vụt ngoài bụi tre nè. Bây là chính quyền coi xử dùm tao vụ nầy. Chớ mất con cu mồi nầy tao tiếc còn hơn mất mấy triệu đồng.
- TÁM TUỒNG: - Dạ! Mà sao nó không trộm cái gì lại đi lấy con cu mồi? Ủa! Mà bác Hai treo miếng vãi nầy làm gì vậy?
- BÁC HAI: - Tao cho nó để tang chú Ba con Hằng, nghĩa tử là nghĩa tận mà bây. Ngày Ba Tam chết tao để ý thấy nó im lặng không kêu réo gì mấy ngày. Thì ra là con vật mà nó cũng có tình, có nghĩa với người chủ của mình. Tao tính đợi vài bữa nữa xã tang 49 ngày rồi tháo ra. Vậy mà bây giờ... À! Con Hằng đâu ? Sẳn có thằng Tám ở đây, con lấy giấy viết ra làm tờ cớ gởi cho chánh quyền luôn đi con.
- HẰNG: - Dạ! Nhưng làm tờ cớ thì viết sao đây ba?
- BÁC HAI: - Thì viết là cớ mất con cu mồi chứ còn sao nữa! Có người trả hai chỉ vàng tao còn không bán đó, bộ bây tưởng đồ bỏ sao! Làm tờ cớ với chính quyền rồi tao sẽ đi kiếm lại cho bằng được con cu mồi nầy. Chỉ có dân trong nghề mới biết giá trị của nó. Thôi, con vô trong viết đi, để ba nói chuyện với anh Tám. – (quay qua tám Tuồng) – Lại đây uống trà Tám, bây ghé tao chắc là có chuyện gì hả ?
- TÁM TUỒNG: - Dạ! Cũng có chút chuyện bác Hai. Bác là người lớn tuổi, có uy tín nhất trong ấp nầy, lại là người đứng đầu dòng tộc họ Trần nên cháu muốn bàn với bác chuyện nầy.
- BÁC HAI: - Thì có chuyện gì bây cứ nói thẳng ra, rào đón úp mở mà làm gì cho mất thì giờ.
- TÁM TUỒNG: - Dạ! Như bác cũng biết tỉnh mình đang kêu gọi đầu tư, các khu công nghiệp, khu chế xuất đang chuẩn bị xây dựng ở nhiều nơi...
- BÁC HAI: - Chuyện đó thì tao biết nhưng mà nó có ăn nhập gì tới mình đâu ?
- TÁM TUỒNG: - Vừa rồi cháu có đi họp trên huyện, mấy anh trên đó báo cho cháu biết có một công ty nước ngoài vào ký kết làm ăn với An Giang mình. Họ sẽ xây dựng một nhà máy sản xuất thuộc vào hàng tiên tiến nhất và sẽ thu nhận hàng ngàn công nhân là người địa phương vào làm việc trong nhà máy...
- BÁC HAI: - Xây dựng nhà máy thì phải có công nhân làm việc chớ chẳng lẻ để nó nằm ở không. Mà bây nói chuyện đó với tao làm cái gì ? Chẳng lẻ bây muốn xin tao cho con Hằng đi làm công nhân ? Không à! Nó phải ở nhà lo cơm nước chớ, lúc nầy bả yếu lắm rồi. À! Mà cái nhà máy đó xây dựng ở đâu mà bây quan tâm dữ vậy ?
- TÁM TUỒNG: - Dạ! Theo như mấy ảnh nói thì nó sẽ nằm trên địa phương mình, ngay tại ấp nầy đây ạ!
- BÁC HAI: - Hả! Bây nói cái gì ? ngay trên ấp mình. Cha! Cái vụ thành thị hóa nông thôn nầy coi chừng lợi bất cập hại à bây. Bán hết đất đai lấy tiền ăn xài cho đã rồi có ngày không còn cục đất chọi chim...
- TÁM TUỒNG: - Thưa bác! Nếu mình nhìn vấn đề ở góc độ tích cực thì mọi việc sẽ không đến nỗi nào đâu ạ. Có nhà máy rồi chẳng mấy chốc xã mình sẽ thay đổi hẳn, ngoài nguồn thu cho ngân sách địa phương thì con em ở địa phương mình sẽ có công ăn việc làm ổn định không còn cảnh nhậu nhẹt sinh chuyện trong những lúc nông nhàn. Rồi điện, đường, trường, trạm cũng sẽ mọc lên...
- BÁC HAI: - Biết! Tao cũng biết như vậy nhưng mà bây giờ tự dưng thay đổi hết tao thấy nó làm sao ấy. Tuy nhiên, nói cho cùng thì mình phải chấp hành chủ trương chính sách của Nhà nước thôi, có muốn đi ngược lại cũng chẳng được.
- TÁM TUỒNG: - Con biết là bác sẽ ủng hộ chuyện nầy thôi nhưng có một vấn đề khá nan giải mà con muốn trình bày với bác. Đó là việc quy hoạch nhà máy có dính cả phần mộ họ Trần của bác vào đó...
- BÁC HAI: - Hả ? bây nói cái gì ? sao phần mộ họ Trần lại dính vào đó...
- TÁM TUỒNG: - Dạ! Vừa rồi mấy anh trên tỉnh cùng đoàn khảo sát nước ngoài đã về đây. Họ chọn khu đất phía đông gồm mấy chục Ha mà bà con mình đang làm lúa. Tất nhiên là họ sẽ bồi hoàn tương xứng với những gì mà mình mất đi. Hầu hết những gia đình có liên quan đều đã đồng ý, chỉ còn bác và mấy anh chị...
- BÁC HAI: - Rồi bây giờ tao phải bốc hết phần mộ ông bà lên à ?! Rồi còn Ba Tam nữa chớ, mới nằm xuống chưa được 49 ngày mà phải quật mồ à ? Không bao giờ! – (bác Hai nói với giọng giận dữ) - Không bao giờ tao cho phép ai động tới nơi yên nghĩ của dòng họ Trần nầy.
- TÁM TUỒNG: - Con xin bác hãy bình tỉnh, con gặp bác là cũng muốn bàn xem có cách nào giải quyết ổn thỏa cho đôi bên.
- BÁC HAI: - Không có giải quyết cái gì hết. Tao thà nhịn đói chứ không bán đất đai của ông bà để lại, rồi còn chuyện đào mồ cuốc mả nữa chớ. Tội lổi, tội lổi lắm Tám ơi!

(Đúng lúc đó Tư Tửng bước vào, anh ta tía lia cái miệng)

- TƯ TỬNG: - Bác hai! Bác Hai ơi! Em Hằng nói con cu mồi bị mất rồi hả bác ? Trời ơi! Uổng quá. Nó là con cu hay nhất mà con biết từ lúc chơi cu tới giờ.
- BÁC HAI: - (giọng buồn thiu) – Ừ ! Mất rồi...
- TƯ TỬNG: - (nhìn thấy Tám Tuồng) – Ủa! anh Tám tới chơi hả ? Anh điều tra giùm cái vụ nầy coi. Hồi nào tới giờ ấp mình đâu có mấy cái vụ trộm vặt nầy.
- TÁM TUỒNG: - (cầm cặp táp đứng lên) – Thưa bác Hai! Bây giờ cháu phải về xã có việc. Cháu sẽ báo lại mấy anh em bên công an để họ xuống xem xét vụ mất trộm. Còn chuyện kia con mong bác xem xét lại. Anh Tư ở chơi nhé!
- TƯ TỬNG: - Dạ! Anh Tám về. À! Mà anh Tám ơi! Tôi nghe bà con nói tới đây sẽ có một nhà máy gì đó xây dựng tại ấp mình phải không anh ?
- TÁM TUỒNG; - Ờ! chuyện đó thì có nhưng vẫn còn một số trục trặc chưa giải quyết xong. Thôi để khi khác nhé! Bây giờ tôi phải đi.
- TƯ TỬNG: - (nói với theo khi Tám Tuồng đã bước ra cửa) - Trục trặc gì thì giải quyết ào một cái cho rồi anh Tám. Có nhà máy là ấp mình đổi đời liền... (quay sang bác Hai) – Phải không bác Hai ?
- BÁC HAI: - Hừ! Đổi đời cái gì. Mầy thì biết mốc khô gì mà kêu nó giải quyết cái ào cho xong. Tao đang bực mình đây...
- TƯ TỬNG: - Thôi mà bác Hai! Giận con, giận cháu làm cái gì, để con đi tầm con cu mồi cho bác. Thằng trộm nó chắc cũng không xa lạ gì đâu...
- BÁC HAI: - Ờ! mầy coi dò hỏi giùm tao, chớ mất nó tao tiếc lắm. Không phải là chuyện nó đáng giá một, hai chỉ vàng đâu. Tao tiếc là vì một nguyên nhân khác kìa.
- TƯ TỬNG: - Vậy con về hén bác Hai. Có gì con cho bác hay liền.

(Tư Tửng bước ra cửa, bác Hai đứng lên bước vào trong. Chuyển cảnh)


CẢNH 2

(Cảnh nhà hai Hùng, con của chú Ba Tam – em bác Hai – trang trí thuộc loại trung lưu ở nông thôn. Hai Hùng đang ngồi trầm ngâm bên bàn trà thì vợ Hai Hùng bước vào)

- VỢ H. HÙNG: - Ông à! Hổm nay ông có nói chuyện với con út Thắm không ? Nó mà không chịu ký tên bán đất thì mình cũng móc bọc luôn. Còn bác Hai nữa, nếu ổng nhất định không chịu dời nền mộ thì mình tính sao đây ?
- HAI HÙNG: - Thì tui đang nhức đầu vì cái chuyện đó đây. Con út Thắm đã nghèo mà còn làm phách, nó nghe lời ông Hai nhất định không chịu bán đất. Ngặt một cái phần đất của mình nằm chung trong phần hương hoả nên phải có đủ chữ ký của mấy anh em. Tự nhiên có hàng trăm triệu đổi lấy cái nghề làm ruộng dầm mưa dãi nắng mà không muốn, cứ muốn ôm lấy cái khổ... (ngập ngừng)... Còn nền mộ thì dời về miếng vườn giáp ranh là xong chớ gì. Cứ phức tạp hoá vần đề lên... ba thì dù gì đi nữa ổng cũng chết rồi. Mà người chết là hết... người sống sờ sờ đây không lo... lại lo...
- VỢ H. HÙNG: - Hay là ông qua nói với bác Hai lần nữa coi, cứ ỏng ẹo hoài coi chừng họ đổi ý mua chổ khác thì mình mất trắng đó. Thiên hạ thì cầu mong bán được đất còn mình được thể lại làm khó dễ... Hừ! Già néo thì đứt dây...
- HAI HÙNG: - Nói rồi! Nói nhiều lần nữa là khác. Ổng nói cái chuyện động mồ động mả quan trọng lắm, không khéo con cháu không ngóc đầu lên nổi. Còn tui thì thấy không có mấy trăm triệu thì đúng là không ngóc đầu lên được với ai.
-
(Đúng lúc đó Út Thắm bước vào. Cô đưa tay lấy chiếc nón lá xuống quạt quạt mấy cái rồi nói với Hai Hùng)

- THẮM: - Anh Hai, ngày mai anh cho máy suốt qua đất tui nghen. Lúa cắt hổm rày ủ mưa ủ nắng rụng bộn rồi.
- HAI HÙNG: - Máy tao hư rồi, bây coi kêu máy khác đi chớ không biết chừng nào mới sửa xong.
- VỢ H. HÙNG: -Ủa! Máy hư hồi nào ông ? mới suốt cho chú Tư Tửng hôm qua mà ?
- HAI HÙNG: -(nạt)- Đàn bà thì biết gì máy móc mà nói. Nó mới hư nè... hỏi nữa không ?
- THẮM: - Chết rồi! Cả vùng nầy bây giờ chỉ có máy suốt của anh thôi. Kêu chổ khác lúc đông ken như vầy thì ai mà đổ đường xuống đây làm cho mình. Mà hư hỏng gì có nặng không anh Hai ? nhắm chừng nào mới sửa xong ?
- HAI HÙNG: - Tao mở mắt còn không biết nữa chớ ở đó mà nhắm... hơn nữa lúc nầy tao kẹt tiền nên chuyện sửa chữa chắc còn lâu...
- THẮM: - Nói như anh vậy chắc mấy công lúa của tui phải đập bồ quá. Mà thời bây giờ làm gì còn bồ mà đập!
- HAI HÙNG: - Bây mà lo gì! Mấy trăm triệu còn hổng lấy... lấy gì mấy công lúa.
- THẮM: - Thôi! Tui hiểu rồi. Chỉ vì cái chuyện bán đất bán đai tui hổng chịu nên bây giờ anh gây khó dễ chứ gì ?
- VỢ H. HÙNG: - Cô Út! Cô nói gì kỳ vậy ? anh em giúp nhau hổng hết chớ gây khó dễ cái gì. Máy hư thì nói máy hư...
- THẮM: - Hừ! Mới chạy ầm ầm suốt cho anh Tư hôm qua, bây giờ tới tui lại hư. Chắc anh chị muốn tui ký giấy bán đất rồi thì máy mới sửa xong chớ gì ? Mà cho dù tui có ký thì bác Hai cũng đâu có chịu! Anh dám ra dời mộ ba hông ?
- HAI HÙNG: - Chuyện có phức tạp hay không thì cũng do mình mà thôi. Tao hỏi mầy ba chết rồi, ổng có nói phải nằm chổ nầy, không nằm chổ khác hông ? Còn ông bà! Thiếu gì gia đình người ta lấy cốt mang vô chùa đó, có sao đâu. Chuyện lập nhà máy là do chủ trương của Nhà nước, mầy chống lại được không ? Sao không lấy tiền đó xây mồ, xây mả lại cho khang trang, đẹp đẻ hơn ? chớ bây giờ hổng có tiền tao thấy lo ăn còn chưa xong nói gì lo bao đồng.
- THẮM: - Không có Nhà nước nào chủ trương đào mồ cuốc mả người ta cả. Mà cũng không phải có tiền là mua được tất cả đâu... anh không suốt thì tui mang lúa về nhà, vợ chồng con cái lo đạp lấy hột. Anh cứ làm theo những gì mà anh cho là đúng. Thôi! Chào anh chị tui về.

(Đợi Thắm bước ra cửa, vợ Hai Hùng hấp tấp quay qua hỏi chồng)

- VỢ H. HÙNG: - Máy suốt có hư thiệt không ông ? Trời ơi! Nghỉ một ngày là mất mấy chục giạ lúa đó.
- HAI HÙNG: - Hư cái gì mà hư! Tại tui thấy con Thắm nó cứng đầu nên nói máy hư để dạy cho nó một bài học quyền huynh thế phụ. Thử coi không có thằng anh Hai nầy thì nó làm ăn lên hay xuống, hở cái gì cũng một điều bác Hai, hai điều bác Hai. Bây giờ cả vùng nầy máy suốt của tui là độc quyền, nhắm ông Hai có lo được cho nó không ?
- VỢ H. HÙNG: - Ông tính sao thì tính, chứ đang vào vụ mà ông để máy nằm nhà sao tui xót ruột quá.
- HAI HÙNG: - Được rồi! Được rồi! Bà vô lo cho mấy con heo ăn đi, nó réo um sùm ở trỏng kìa , mọi chuyện để tui lo.

(Trở lại cảnh nhà bác Hai, có treo chiếc lồng trống không trước nhà. Trên chiếc lồng vẫn còn mảnh vãi trắng, bác Hai đi tới đi lui ngẫm nghĩ)

CẢNH 3

- BÁC HAI: - (Đi tới, đi lui lầm bầm một mình) - Cái thằng Tửng nầy! Nói bửa nay ghé mà đợi hoài hổng thấy.
- HẰNG: - (xách cái ấm nước sôi bước tới châm vào bình trà trên bàn rồi quay ra bác Hai) – Ba! Con mới châm trà đó, ba đợi một chút cho ra trà rồi hãy uống. Ba đang đợi ai mà đi tới đi lui coi bộ nóng ruột dữ vậy ?
- BÁC HAI: - Thằng Tư Tửng nó nói bữa nay ghé cho tao biết tin về con cu mồi. Hình như có người đang nuôi nó ở Chợ Mới thì phải. Để thằng Tửng về coi sao, nếu đúng chắc ba phải đi ra ngoài đó một chuyến mới được.
- HAI HÙNG: (Từ ngoài cửa bước vào) – Bác Hai! Bác nói ai nuôi con gì ngoài Chợ Mới ?
- BÁC HAI: - Ờ! thằng Hùng hả ? thì tao nói con cu mồi của ba mầy để lại bị mất cả 10 ngày nay rồi đó.
- HẰNG: - Anh Hai mới qua! anh ngồi chơi uống nước, em phải vô nấu cơm. – (nói xong Hằng bước vào trong)
- HAI HÙNG: - Tưởng gì! Thôi thì mình kiếm con khác chớ hơi nào bác đổ đường ra Chợ Mới. Rủi hổng phải nó thì có phải mình mất tiền một cách lãng xẹt hông ? Mà hình như lúc nầy bác đâu còn gác cu, gác kiếc gì nữa, cần gì phải nuôi cu mồi ?
- BÁC HAI: - (lớn giọng) - Mầy thì biết gì mà nói. Tao chưa chết thì không ai có thể đem con cu mồi nầy đi đâu cả ?
- HAI HÙNG: - Thì nó đem đi rồi đó...
- BÁC HAI: - Mầy tính chọc tức tao hả Hùng. Bởi vậy tao mới quyết tìm cho ra cái thằng ăn trộm... mà mầy qua đây chắc không phải vì chuyện mấy con cu đó chớ ?
- HAI HÙNG: - Thì bác biết rồi, ngay cả khi ba con còn sống, con đã không ưa chuyện chim chóc rồi. Cái con quan tâm là làm cách nào có tiền kìa.
- BÁC HAI: - Bởi vậy mầy mới không nghĩ gì đến cha mẹ, ông bà. Tính đem cả nền mộ tổ tiên đi bán đó.
- HAI HÙNG: - Kìa! Bác Hai nói vậy thì tội cho con quá. Cái chuyện xây nhà máy có phải mình muốn là được đâu! Ở trên người ta tính toán đâu ra đấy cả rồi. Ba con mới chết, con cũng đau lòng lắm chớ. Nhưng con hỏi bác nếu như mình cương quyết không chịu, lở họ ra lệnh cưởng chế mang xe bang, xe bừa vô san bằng thì lúc đó mình làm sao ? Chi bằng chủ động di dời trước có phải êm đẹp hơn không ?!
- BÁC HAI: - Làm sao hả ?! Khi nào tao chết thì chuyện đó mới xảy ra. Mầy cứ trù tao chết đi thì mọi chuyện sẽ được như ý mầy!
- HAI HÙNG: - Bác Hai! Thật ra con đâu có ý đó...

(Ngay lúc đó Út Thắm bước vào, không nhìn thấy Hai Hùng cô ta nói với bác Hai bằng một giọng tức tối)

- THẮM: - Bác Hai! Bác coi, con không chịu bán đất nên bây giờ anh Hai con nói máy hư không suốt lúa cho con. Mà lúa thì con cắt mấy ngày rồi, ủ mưa nắng vài bữa nửa chắc rụng không còn một hột.
- HAI HÙNG: - Cái con nầy! Mầy ăn nói gì kỳ vậy ? máy hư thì tao nói hư, hỏng lẻ mầy muốn tao nhai lúa cho mầy bằng hai hàm răng ?
- THẮM: - Phải rồi! Máy hư, máy hư mà mới hôm qua suốt cho anh Tư Tửng cả chục công đất...
- BÁC HAI: - Hùng! Tao không ngờ mầy tệ quá, anh em ruột mà mầy đối xử với nhau như vậy à ?
- HAI HÙNG: - Máy con hư thiệt mà bác Hai, hổng tin bác qua bển mà coi!
- BÁC HAI: - Mầy nói nghe tức cười quá, tao có coi thì cũng biết cóc khô gì! Chỉ có chủ của nó thì mới biết là nó bệnh thật hay bệnh giả... mà máy hư sao mầy không ở nhà lo sửa chửa ? qua đây làm cái gì ?
- HAI HÙNG: - Thì con qua đây coi anh Tám có ghé hông ? chẳng biết cái chuyện xây dựng nhà máy đó tới đâu rồi ?
- BÁC HAI: - Tới đâu thây kệ người ta! Cái chuyện lúa thóc của em út mầy nè sao không lo, lại đi lo cái chuyện lớn lao chi vậy ?
- THẮM: - (sụt sịt khóc) – Bác Hai! Rồi bây giờ con biết tính làm sao, đang lúc đông ken biết kêu máy nào, trong khi ai cũng dằn ngày trước cả tháng trời...

(Đúng lúc đó Tư Tửng về tới, chưa bước vào cửa anh ta đã tía lia cái miệng từ ngoài sân)

- TƯ TỬNG: - Bác Hai ơi! Bác Hai! Đúng nó rồi, đúng là con cu của bác rồi.
- BÁC HAI: - Mầy thiệt đúng là già mà hổng nên nết, ăn nói như vậy mà nghe được à!
- TƯ TỬNG: - (cười, cười ra vẻ nhận lổi) – Con xin lổi bác! Tại con mừng quá. Bác biết hôn! Con có thằng bạn cũng là dân chơi cu, gác quốc ngoài Chợ Mới. Vừa rồi, gặp con nó khoe ông anh nó mới mua được con cu mồi hay lắm, mỗi khi cất giọng là “bo” một tràng 7, 8 tiếng. Con nghi nghi rồi, vì con cu của mình cũng bo 7 tiếng mà, vậy là con nói với nó để tao ra coi thử. Hồi sáng nầy con đổ đường ra ngoải, vừa thấy nó là con biết gặp lại cố nhân rồi. Cái cánh bên trái nó hơi xệ xuống, còn tiếng “bo” của nó làm sao mà lầm lẩn được. Mà hình như nó cũng nhận ra con hay sao ấy...
- HAI HÙNG: - (nói chen vào) – Sao mầy không bắt nó đem về luôn ?
- TƯ TỬNG: - Anh nói nghe dễ quá! Tui lấy lý do gì mà bắt ? Tui cũng hổng nói vụ mình bị mất trộm nữa mà chỉ khen con cu mồi hay quá, sau đó lai rai vài xị rồi về.
- BÁC HAI: - Mầy thì đi tới đâu là nhậu tới đó, bởi vậy tao ở nhà đợi mày cóc muốn mọc râu luôn. À! Mà hồi nảy mầy nói hình như con cu làm sao?
- TƯ TỬNG: - Bác biết hôn! Khi thấy con lại gần huýt gió mấy tiếng là nó “bo” lên một hơi mấy tràng không nghỉ, làm thằng bạn con cũng cảm thấy lạ.
- THẮM: - Hồi ba em còn sống, ổng cưng nó còn hơn tụi em nữa. Mỗi lần ổng đi đâu về là nó kêu lên inh ỏi nhiều khi phát bực.
- BÁC HAI: - Con vật nhiều khi còn hơn con người ở khía cạnh tình cảm. Nếu mình yêu thương nó thì nó sẽ yêu thương lại mình...
- TƯ TỬNG: - Có chuyện nầy con muốn hỏi bác. Vì sao bác nhất định phải tìm lại cho bằng được con cu nầy ? con nhớ trước đây bác từng có những con còn hay hơn con nầy nhiều mà ?
- BÁC HAI: - Được rồi! Sẳn có hai đứa con ba Tam ở đây tao kể cho tụi mầy nghe câu chuyện nầy. Câu chuyện xảy ra đã tám năm rồi, đó là ngày mà tao và ba Tam bắt được con cu nầy.
- THẮM: - Con nhớ rồi! Phải cái hồi bác với ba con đi gác cu rồi bác bị rắn cắn. Đúng không bác Hai ?
- BÁC HAI: - Bây nhớ đúng lắm! Lần đó bác với ba con đổ đường lên tận miệt Thoại Sơn, Châu Đốc. Hai anh em quần nát mấy cánh rừng ở đó hai, ba ngày bắt được cũng bộn rồi. Sáng đó, tao tính về rồi thì chợt nghe nó “bo” một tràng dài lảnh lót. Tao với ba Tam đều là dân trong nghề nên nghe qua đã biết đây là của hiếm. Tìm chổ đặt cái “lụp” ngon lành rồi, tao với ba Tam ngồi chờ. Mà tụi bây biết không! dường như nó cũng hiểu chổ đồng loại nó đang đứng ngữa cổ kêu kia là cạm bẫy nên không xáp vào đá mà chỉ đậu xa xa kêu đáp lại. Cả một buổi tao với ba Tam nín thở, rình không dám nhúc nhích vậy mà nó vẫn đậu cách 4,5 mét “bo” cúc cù cu như thể chọc tức vậy.
- TƯ TỬNG: - Rồi chừng nào mới bắt được bác Hai ?
- BÁC HAI: - Cái thằng cứ tươm tướp. Thì mầy để từ từ tao kể. Mặt trời đúng ngọ rồi, đói bụng quá tao kêu ba Tam lội ra xóm kiếm cái gì ăn, còn tao ở lại quyết bắt cho bằng được. Đâu khoảng hơn tiếng đồng hồ sau, ba Tam vẫn chưa trở lại thì tao thấy nó bay rề rề lại gần cái “lụp”, còn con cu mồi trong “lụp” thì cũng hứng chí kêu càng lúc càng lớn. Tao nói thầm trong bụng chuyến nầy coi mầy chạy đi đâu!
- TƯ TỬNG: - (giọng hồi hộp) – Rồi! Rồi... nó vô hông Bác Hai?
- BÁC HAI: - Nhưng, ngay lúc nó vừa tính xáp vào đá thì tao chợt thấy đau nhói dưới chân, nhìn xuống chỉ thấy một lằn dài màu đen vừa khuất vô bụi rậm. Tao biết mình bị rắn hổ cắn rồi nên xé cái khăn rằn trên đầu cột thật chặt phía trên bắp chân. Nghe tiếng động dưới nầy, con cu cũng hoảng hồn bay mất. Tao cũng mặc kệ tụi nó, phải lo cho tính mạng mình trước nên quay ra hướng ba Tam vừa đi. Mấy lần đi gác trước tụi tao đều có mang theo cục hút nọc rắn vậy mà lần nầy lú lẩn sao đó lại quên...
- THẮM: - Trời ơi! Sao Bác lại quên...?
- BÁC HAI: - Vẹt cây cỏ rậm rạp đâu được vài trăm mét thì tao xây xẩm mặt mày, ngã ngồi xuống không đi nổi nữa. May mắn là lúc đó ba Tam cũng vừa về tới. Vừa trông thấy tao là ba Tam nó hiểu rồi, chẳng nói chẳng rằng nó vụt bỏ mớ đồ ăn lỉnh kỉnh xốc nách cõng tao tốc chạy. Tụi bây biết không ở mấy khu rừng miệt đó khó đi lắm, một mình đã vất vả rồi nói chi phải cõng một người trên lưng. Vậy mà ba Tam cõng tao đi gần 3 cây số mới ra tới xóm dân, trên đường đi khi thấy tao mê man nó sợ quá vừa kêu anh Hai, anh Hai vừa khóc ròng. Đã vậy, chẳng biết đi đứng làm sao mà đạp phải miểng chai lút vô gần nữa bàn chân. Nó chỉ kịp đặt tao xuống, rút miếng miểng ra rồi để mặc máu chảy ròng ròng cõng tao đi tiếp.
- THẮM: - Hèn gì! Chuyến đó về ba con bệnh luôn cả mấy ngày...
- HAI HÙNG: - (nạt) – Đừng có ăn cơm hớt! Để ổng kể tiếp coi...
- BÁC HAI: - May mắn là xóm đó có ông thầy rắn hay lắm. Khi tao mở mắt ra, vừa thấy ba Tam tao cũng giật mình. Hai mắt đỏ hoe, quần áo rách tùm lum, dính đầy máu. Ông thầy rắn nói nếu ba Tam đưa tao ra trể chừng vài phút nữa thôi là vô phương cứu chửa.
- TƯ TỬNG: - Ủa! Vậy rồi có bắt được con cu hông ?
- BÁC HAI: - Hết chết thật, tự nhiên tao đâm ra chết nhát. Tao nói với ba Tam thôi bỏ nó đi, cuốn đồ về. Ba Tam nó biết tao tiếc con cu nầy hùi hụi nên bảo tao nghỉ đở nhà ông thầy rắn một ngày để nó trở vô lấy đồ, vì lúc đó gấp gáp quá cả con cu mồi cũng còn bỏ lại trong ấy.
- TƯ TỬNG: - Vậy là chú Ba trở vô...
- BÁC HAI: - Cái tánh của ba Tam là vậy, đã tính cái gì là quyết làm cho bằng được. Nó trở vô chổ cũ, rình cả một buổi sáng cuối cũng thì con cu cũng sụp bẫy. Trên đường về nhà nó nói tui gác con cu nầy là cho anh chớ không phải cho tui đâu. Vì nó mà anh suýt chết thì anh làm chủ nó là hợp lý rồi. Tao nhất định không nhận vì như thằng Tư biết, đã là dân gác cu thì làm sao mà không mê mấy con “thiện chiến”, nó nói vậy vì nó thương tao và cũng vì tao là anh nó, cái tánh nhường nhịn anh em trong nhà ba Tam đã có từ nhỏ kìa...
- THẮM: - Sau đận đó ba con cũng ít đi gác cu hơn.
- BÁC HAI: - Gác cu cũng có cái thú của nó. Lặn lội tìm cho được một con cu hay, rồi đặt “lụp”, gài cu mồi, ngồi rình hàng đôi ba tiếng đồng hồ hoặc đôi khi cả một, hai ngày chờ nó vô bẫy. Bắt được rồi thì quả thật không còn cái gì sướng hơn. Ở ngoài miền Bắc, dân chơi chim gọi nó là chim gáy, gặp mấy con “bo” một tràng 6,7 tiếng thì giá trị lắm chớ chẳng phải chơi đâu. Nhưng bây giờ dân gác cu thực dụng quá rồi, họ bẫy bằng lưới, thu tiếng kêu vô băng cát – sét có khi bắt một lần cả bầy mấy chục con. Mình thì càng ngày càng già, nuôi nó để hàng ngày nghe cúc cù cu cho đở nhớ nghề vậy thôi...
- TƯ TỬNG: - Vậy là bác Hai nuôi con cu nầy như một cách tưởng nhớ chú Ba chớ gì ?
- THẮM; - Trời ơi! Anh Tư nói hay như trong phim...
- TƯ TỬNG: - Con nhỏ nầy làm quê bây...
- BÁC HAI: - Tao đem nó về đây nuôi như một cách nhắc nhở rằng tình anh em ruột thịt nó quý báu, thiêng liêng vô cùng. Tiền bạc thì có thể kiếm được chớ tình nghĩa mà mất rồi thì khó mà tìm lại. Đó như bây giờ ba Tam chết rồi, có món gì ngon muốn mang cho nó cũng hổng được. Cứ nghe tiếng cu kêu tao lại nhớ cái lần chết hụt đó mà thương nó ứa nước mắt. Thằng Hùng, con Thắm hãy lấy cái gương đó mà sống thế nào đừng làm tủi vong linh của ba mình.
- HAI HÙNG: - (cuối đầu im lặng một lúc rồi ngước lên nói) - Dạ thưa bác Hai! Con hiểu rồi ạ! Con xin lổi bác. Thắm! Bây về bển chuẩn bị đi, một chút tao đem máy qua suốt.
- THẮM: - (giọng mừng rỡ) - Thiệt hả anh Hai ? Vậy em về trước nghe anh Hai. Qua liền nghe anh Hai...

(Thắm vội vả lấy chiếc nón lá đội lên đầu rồi đi nhanh ra cửa. Lúc đó Tám Tuồng cũng vừa bước vào. Hai người chạm mặt, Thắm buột miệng)

- THẮM: Ủa! Anh Tám mới tới hả.
- TÁM TUỒNG: - Ờ! tôi mới tới. Cô Út đi đâu mà có vẻ vội vả quá vậy ?
- THẮM: - Em phải về để lo suốt lúa, cắt hổm rày rồi cũng hơi nóng ruột. Thôi anh Tám ở chơi em về.
- TÁM TUỒNG: - Chào cả nhà. Ủa! Làm gì mà đông đủ quá vậy ? Chú Tư Tửng mùa mầy lúa trúng có liên hoan gì chưa ? Nhớ cho hay nghe.
- TƯ TỬNG: - Anh Tám nói chơi hoài, liệu anh có chịu ghé nhà nghèo uống ly rượu nhạt không đó.
- TÁM TUỒNG: Thôi! nói đùa với chú Tư vậy mà! Thưa bác Hai! Bửa nay con ghé...
- BÁC HAI: - Lại là chuyện cái nhà máy chớ gì ? Bây khỏi thuyết phục tao mất công. Bỏ tiền tỷ ra kêu tao dời nền mộ, tao cũng không dời nữa chớ đừng nói vài trăm triệu.
- HAI HÙNG: - Đó! Anh Tám thấy không, tôi đã nói với anh mà...
- BÁC HAI: - (nạt lớn) – Mầy nói cái gì với thằng Tám hả ?
- TÁM TUỒNG: - Dạ! Xin bác Hai đừng nóng. Hôm nay con ghé là định nói với gia đình chuyện khác kia.
- BÁC HAI: - Chuyện khác là chuyện gì bây nói thử coi.
- TÁM TUỒNG: - Hôm qua con lên huyện họp, mấy anh trên đó cho biết cái dự án xây dựng nhà máy tại địa phương mình đã đình lại vì nguyên nhân gì đó cháu chưa rõ, khi nào có tin mới mấy ảnh sẽ thông báo sau.
- BÁC HAI: - Phải rồi! Đình lại là phải rồi, tao chẳng buồn phiền, thắc mắc chút nào đâu... Ủa! Thằng Hùng bây tính đi đâu đó ?
- HAI HÙNG: - (đi nhanh ra cửa) – Dạ! Con về suốt lúa cho con Thắm... anh Tám ở chơi tui về.
- BÁC HAI: - Ờ ! mầy về lo cho em út đi. Còn thằng Tửng chuẩn bị ngày mai tao với mầy đi Chợ Mới.
- TÁM TUỒNG: - Ủa! Bác hai đi Chợ Mới làm gì ?
- BÁC HAI: - Tao đi bắt con cu mồi về.
- TÁM TUỒNG: - Lại là con cu mồi hả Bác Hai.
- BÁC HAI: - Ờ! nó đó bây.

MÀN HẠ



Điểm danh đồng đội

Đây là bài nhạc tôi đã phổ từ bài thơ có cùng tên đã được đăng trên tạp chí Văn nghệ quân đội tháng 10-2008.

CÔ BÉ ĐEO BA LÔ


Cô bé đeo ba lô đội kết
Xỏ đôi giầy “das” đi nghênh ngang
Đường phố Sài Gòn xanh như biển
Bé chim Hải âu chiều lang thang

Ba lô bé đựng gì trong ấy?
Có ô mai, cóc ổi, me dầm
Hay bức thư tình chưa kịp gởi
Đưa anh – anh nhớ đến trăm năm

Anh cũng từng một thời như bé
Ba lô lộng gió ở trên rừng
Chân quen câu hát đường vạn dậm
Nên giờ gặp bé chắc không dưng

Bé hãy cho anh cùng đi với
Bốn chân sẽ vững chẳng thua kiềng
Anh đọc thơ tình như góp lá
Trải vàng đường phố bé êm chân

Cô bé đeo ba lô đội kết
Chân nai tha thẩn phố Sài Gòn
Anh muốn tìm trong đôi mắt nhỏ
Tình yêu như một trái mơ ngon

LỜI TỰ TÌNH ĐÊM ĐÔNG

Đêm nay lạnh em có đòi ngủ chung với mẹ
Để được nghe lại truyện cổ An-đéc-xen
Cô chủ nhỏ mê vì sao đi lạc
Ngủ quên trên vai gã mục đồng

Thương những que diêm nhỏ bé giữa đêm đông
Không ấm nổi cuộc đời bất hạnh
Em biết không! Giấc mơ nhà cao cửa rộng
Đôi khi giết chết người ta một cách dễ dàng

Nghìn lẻ một đêm chuyện kể miên man
Em bằng lòng không ta sẽ là Xê-hê-ra-zát?
Vị hoàng đế xưa chưa hẳn mê cổ tích
Không dám nói yêu nàng vì kiêu ngạo đấy thôi

Tiết trời đông đã lạnh lắm rồi
Đừng lặng lẽ quay mặt nhìn xa lạ
Mùa đông không đến sau mùa thu mùa hạ
Mà đến từ em sau buổi giận hờn!

Có chú dế đêm nay đi lạc hộc bàn
Đang lén đọc bài thơ tình vụng dại
Những điều ta viết cho em như chuyện ngày xưa lặp lại
Bởi tình yêu có cũ bao giờ

BÉ CON ĐI CHÙA

(Tranh sơn mài "Em đi chùa Hương")
http://www.art2all.net/tranh/thanhtri/phan6_sonmai/chotet.jpg

Bé con theo mẹ lễ chùa
Mắt ngơ ngác, tựa như vừa ngủ quên
Mẹ ngồi bé cũng kề bên
Cũng quỳ, cũng lạy nhưng quên nguyện cầu
Bé con mà! Biết chi đâu
Tóc vừa vai chấm – lần đầu mười lăm
Như trăng vừa mới đủ rằm
Khẽ khàng rơi lẩn hương trầm ngất ngây
Mẹ kìa! Phật tổ chau mày
Mĩm cười chắc hẳn nhiều may – ít buồn
Bé nghe tim đập mạnh hơn
Dường như bé nhớ đến người – người dưng

Bé con má ửng bâng khuâng
Cắn đôi sợi tóc, ngập ngừng bước đi

Đức Phật ơi! Bé thầm thì
Con giờ đã biết nguyện chi với người

THƠ XUÂN


MỘT CHÚT MÙA XUÂN

Em mặc vào chiếc áo hoa
Cùng ta nhé, đi cùng ta
Nghe gió xuân căng lồng ngực
Đồi non cỏ đã lên ngàn

Chim kêu ngoài ngõ gọi mời
Giọng mát tựa là hơi sương
Em đừng ngại e mệt mỏi
Nhẹ chân líu ríu bên đường

Mùa xuân quá chừng lãng mạn
Hào phóng cho em má hồng
Hoa kia kém gì lãng mạn
Mở hết cánh lòng dâng hương

Cùng ta nhé em, cùng ta
Một chút mùa xuân vậy mà
Mau chân lên kẻo xuân muộn
Nhớ mặc vào chiếc áo hoa.




DU XUÂN


Mùa xuân theo gió rong chơi
Động hờ tình ái, cọ đời xuân xanh
Ồ! Ta lãng mạn quá rành
Mà tim vẫn khép nép thành trẻ con

Mùa xuân xuống phố lon ton
Đong đưa đôi lứa cho tròn nhịp yêu
Ồ! Thiên hạ quá mỹ miều
Không men ủ, vẫn hồn liêu xiêu hồn

Mùa xuân con mắt chập chờn
Lộc non mộng mị, môi son vía người
Ồ! Hà tiện chi nụ cười
Cho nhau kẻo lở rụng rơi khó tìm

Du xuân suốt cả lòng đêm
Giật mình sực nhớ nhịp tim lạ kỳ.

Chủ Nhật, 4 tháng 1, 2009

BAI VE CUA MA TOI

(Hỏi cung - Ảnh tư liệu xưa)
(Thụ hình - Ảnh tư liệu xưa)

(Ăn cắp bị phạt đòn - Ảnh tư liệu xưa)

Ngay từ khi tôi còn nhỏ xíu, đã nghe má đọc mấy câu vè này rồi. Nhất là những lúc nhà thắt ngặt, thiếu thốn thì hai câu: “Bạc không cánh bay đâu chẳng biết. Vàng không chân mấy chiếc cũng không còn…” lại được má tôi lập đi, lập lại khiến mấy anh em tôi thuộc lòng từ hồi nào chẳng biết. Sau này, lớn lên chút đỉnh có lần tôi hỏi: “Sao má đọc mấy câu đó hoài vậy? Hoàn cảnh nhà mình bây giờ cũng đỡ rồi mà”. – “Tại con hổng biết, chớ đây là bài vè kinh tế mà má thuộc lòng từ hồi nhỏ…”. Thấy lạ lạ tôi đã nhờ má đọc cho tôi chép lại cả bài, có thể không chính xác từng chữ nhưng với một bà lão trên 70 tuổi, việc đọc thuộc lòng cả 94 câu của bài vè là đã quá tốt rồi dù cũng phải cả một tuần lễ mới xong. Qua sự việc này tôi chợt nhận ra một điều đó là sức sống mảnh liệt cũng như ảnh hường sâu rộng của “vè”, một loại hình văn học dân gian rất phổ biến ở nông thôn Việt Nam xưa.

Vè Kinh tế

Nghe vẻ nghe ve
Nghe vè kinh tế
Ngồi suy nghĩ xem trong cuộc thế
Thấy nhân dân kinh tế mà thương
Chẳng qua là Nam Việt vô Vương thảm thiết
Bạc không cánh bay đâu chẳng biết
Vàng không chân mấy chiếc cũng không còn
Mấy năm sau lại hao mòn
Mùa màng thất bát lính còn bắt buột
Thương hại cho lê dân đứt ruột
Đã lâm nguy lại gặp thêm cảnh ngặt nghèo
Thảm cho vợ con đói rách đùm đeo
Trốn bờ bụi mã tà còn kiếm bắt
Có gan đồng dạ sắt
Cũng rơi nước mắt một khi
Sách có chữ “Thố tử Hồ bi”
Vật còn biết thương vật
Huống chi người chẳng tưởng

Đại Pháp cầm quyền chấp trưởng
Tưởng đâu Nam kỳ
Vui hưởng thái bình
Một lần bão lụt năm Thìn
Đã hao tốn xứ mình vô hạn
Mùa màng thất bát
Giá lúa đồng sáu, đồng ba
Một đầu thuế tính ra là năm giạ
Qua năm Tuất điềm trời cũng lạ
Giá lúa sụt một giạ còn hai cắc ngoài
Biết làm sao đóng nổi lá bài
Đi làm mướn tối ngày có một cắc mấy

Mấy năm trước cũng nhờ lúa mắc
Lại bán đắt mua may
Hà cờ gì cho đến năm nay
Đồ vật thực rẻ thôi vô số
Chệt bán buôn bỏ phố trốn về Tàu
Ghé mà coi mấy cậu nhà giàu
Ngó bảnh bao mà anh nào cũng mua chịu

Lập bộ đất cắn răng mà chịu
Lỡ chân rồi khó liệu, khó lo
Dòm nhà nào cũng bữa đói, bữa no
Nhổ bông súng, móc củ co cũng còn dễ thở
Lúc túng cùng bán xài cũng đỡ
Khỏi lo thiếu nợ, thiếu nần
Sách có chữ “tiểu phú do cần”
Lại có chữ “thanh bần vô hại”
Dĩa dưa, dĩa muối
Đạm bạc cơ hàn
Xịch xạc lều tranh
Mặc ai đục cò trục lợi kinh doanh
Tham cho thái quá
Đi ngang về tắt

Chuyện thời thế, thế thời
Càng ngày càng gắt
Đường vinh nhục đổi thay một lát
Trời lại khiến cho nhân dân đói khát
Bảy ngày đầu năm tiếng pháo vắng teo
Ba mươi tết chẳng thấy ai mần heo cúng kiến
Lại có ít người đến viếng ông bà
Giấy áo quần, vàng bạc, nhang trà
Tiền đâu có mà lo đơm oải
Nhớ hồi nẵm tiền còn rộng rãi
Giàu thì nhiễu nho
Nghèo cũng bô vải cho vợ con
Nay gạo đong từ lon, từ lít
Vui sướng gì mà sắm món ngon vật lạ
Nhiều người lệ hạ tuôn rơi

Một năm trời bảy bữa ăn chơi
Cũng không đặng thảnh thơi, thong thả
Chồng mang lưới
Vợ mang chài
Con quần vá
Áo còn bâu
Quần còn lưng
Cũng ráng lo cuốc bẫm cày sâu làm rẫy bái
Than ôi!
Khoai không củ
Cải đỏ nghen còi cọc mọc ngồng
Phải tưới nước vun phân
Trăm bề vất vả
Công cấy, công cày
Lúa nở bụi bắp chân
Ai ai cũng vui cười hớn hở
Có ngờ đâu tiết trời tráo trở
Nước 30 tháng 9 hết chừng
Đi trên bờ lộ phải xăn quần tới háng
Chòi trại ngập sàng trôi ván mất tăm
Ngó ra đồng ra ruộng tợ biển đông
Tội nghiệp kẻ canh nông
Tấm lòng héo hắt

Trong làng tổng người người xốn mắt
Bọn Hội tề, quan Chánh lớn
Động lòng chắc lưỡi lắc đầu
Thế này qua năm tới lúa đâu mà nộp

Nhà nước hết lòng bảo hộ nhân dân!

(Ghi lại theo trí nhớ của bà Nguyễn Thị Ảnh, sinh năm 1931, hiện ngụ tại P. Trường Lạc, Q. Ô Môn, TP. Cần Thơ)

Má tôi còn nói bài vè này của ông Năm Của người làng Rạch Cam, Long Tuyền được truyền miệng rộng rải vào khoảng thập niên 30 thế kỷ trước tại làng Tân Thới, Phong Phú, Phong Dinh. Đọc kỹ lại bài vè và nghiên cứu thêm tài liệu tôi có được một số hiểu biết cũng không kém phần thú vị.
Trong Ðại Nam quốc âm tự vị, vè là chuyện khen chê có ca vần và việc sáng tác vè nói nôm na là đặt chuyện khen chê có ca vần. Ðịnh nghĩa này còn đơn giản, nhưng đã nêu được những đặc trưng cơ bản của vè. Nó chính là thể loại tự sự dân gian bằng văn vần, chủ yếu nhằm phản ánh kịp thời và cụ thể những chuyện về người thật, việc thật ở từng địa phương, những sự kiện có ý nghĩa trong đời sống nhân dân.
Vè có từ bao giờ? Chưa có cơ sở xác định nhưng người ta biết rằng vè nảy sinh chủ yếu trong thời kỳ phong kiến và phát triển nhất trong thời kỳ cận đại ở các thế kỷ XVIII, XIX, XX. Sự xuất hiện của vè là một bước tiến mới của văn tự sự dân gian. Vè xuất hiện để bổ sung cho lối kể truyện bằng văn xuôi một cách thể hiện mới có vần có nhịp, qua đó biểu hiện nội dung các vấn đề xã hội mà nhân dân muốn nêu lên.
Xã hội Việt Nam vào những năm 1936-1939, đa số nông dân không có ruộng đất, hoặc có ít ruộng, họ phải đi lãnh đất của địa chủ để cày cấy, hoặc đi làm thuê làm mướn. Đã khốn khổ về kinh tế, vật chất thiếu thốn lại còn bị nạn thiên tai bão lụt, dịch bệnh liên tiếp xảy ra. Năm 1937, nạn đói xảy ra ở khắp miền Bắc. Năm 1938 nạn đói xảy ra ở khắp ba miền ngay cả ở miền Nam như các tỉnh Bạc Liêu, Cà Mau, Rạch Giá, Cần Thơ, Châu Đốc, Long Xuyên người dân cũng bị đói khổ. Có thể bài “Vè kinh tế” nói trên xuất hiện vào khoảng thời điểm này, căn cứ vào nội dung mà bài vè truyền tải ta có thể xếp bài vè này vào nhóm “vè thế sự”.
Vè thế sự ghi nhận thực trạng đời sống nhân dân. Trong đó loại vè thế sự có giá trị hiện thực hơn cả là những bài đả kích ách thống trị của bọn thực dân, phong kiến. Từ những sự kiện cụ thể trong đời sống sinh hoạt, nhân dân bài vè đã cho người nghe thấy được những nguyên nhân xã hội dẫn đến cuộc sống khốn cùng. Nhìn chung, vè thế sự miêu tả rất sinh động cuộc sống nhân dân, phản ánh hiện thực xã hội nước ta dưới ách thống trị thực dân phong kiến.
Quay lại bài “Vè kinh tế” trong phần mở đầu:
Nghe vẻ nghe ve
Nghe vè kinh tế
Ngồi suy nghĩ xem trong cuộc thế
Thấy nhân dân kinh tế mà thương
Chẳng qua là Nam Việt vô Vương thảm thiết
Bài vè đã đi thẳng vào vấn đề, Nam bộ đã không còn “chủ quyền” mà nằm dưới quyền sinh sát của người Pháp. Điều này càng được khẳng định hơn ở các đoạn sau:
Đại Pháp cầm quyền chấp trưởng
Tưởng đâu Nam kỳ
Vui hưởng thái bình…
Để rồi kết thúc bằng cái nhìn hết sức chua chát và châm biếm sâu sắt:

Trong làng tổng người người xốn mắt
Bọn Hội tề, quan Chánh lớn
Động lòng chắc lưởi lắc đầu
Thế này qua năm tới lúa đâu mà nộp

Nhà nước hết lòng bảo hộ nhân dân!
Có những chi tiết trong bài “Vè kinh tế” mà khi đọc nó lại làm tôi liên tưởng đến một số tác phẩm văn học miêu tả bối cảnh xã hội lúc bấy giờ mà nhà văn Hồ Biểu Chánh là gương mặt tiêu biểu.

Mùa màng thất bát lính còn bắt buột
Thương hại cho lê dân đứt ruột
Đã lâm nguy lại gặp thêm cảnh ngặt nghèo
Thảm cho vợ con đói rách đùm đeo
Trốn bờ bụi mã tà còn kiếm bắt…
Phải chăng đây chính bức tranh tăm tối của kẻ cùng đinh mạt hạng Lê Văn Đó trong tác phẩm (Ngọn cỏ gió đùa), nghèo đến mức phải ăn trộm nồi cháo heo để cứu đói mẹ già và đàn cháu nhỏ, trải qua tù tội khổ ải.
Còn ở hai câu:
Dòm nhà nào cũng bữa đói, bữa no
Nhổ bông súng, móc củ co cũng còn dễ thở
Cũng đâu khác gì:
cả nhà phải luộc rau cỏ mà ăn đỡ, chớ không có cháo mà ăn” (Ngọn cỏ gió đùa, trang 16). Cái đói đã làm tắt hẳn nụ cười hồn nhiên trên những gương mặt thơ ngây, lưu lại dấu tích thê thảm: “sắp nhỏ nhịn đói mặt mày vàng ẻo “( Ngọn cỏ gió đùa, trang 16).

Tác giả bài “Vè kinh tế”, một nghệ sĩ dân gian đã không bỏ qua chi tiết nào từ những cái rất chung, rất tiêu biểu đến những cái rất cụ thể mà hết sức chân thật như:
Một lần bão lụt năm Thìn
Đã hao tốn xứ mình vô hạn
Mùa màng thất bát
Giá lúa đồng sáu, đồng ba
Một đầu thuế tính ra là năm giạ
Qua năm Tuất điềm trời cũng lạ
Giá lúa sụt một giạ còn hai cắc ngoài
Biết làm sao đóng nổi lá bài
Đi làm mướn tối ngày có một cắc mấy…
Hay:
Chệt bán buôn bỏ phố trốn về Tàu…
Chính là đề cập đến chủ trương sử dụng lá bài Hoa kiều của Nhà nước Pháp quốc lúc bấy giờ vì tư bản Hoa kiều là những kẻ có đủ sức mua những hàng hóa của Pháp để bán lại ở Việt Nam.
Hoặc:
Lập bộ đất cắn răng mà chịu
Lỡ chân rồi khó liệu, khó lo
Dòm nhà nào cũng bữa đói, bữa no
Nhổ bông súng, móc củ co cũng còn dễ thở…
Chính là cách làm bần cùng hóa nông dân của nhà nước bảo hộ khiến họ phải bán ruộng đất cho địa chủ với giá rẻ.
Nhìn chung, mỗi bài vè có giá trị nghệ thuật khá độc đáo riêng của nó. Phần lớn các bài vè có vận mệnh ngắn ngủi, thời gian cần thiết để đạt tới một hình thức hoàn chỉnh, trau chuốt ít có được. Thế nhưng, bài “Vè kinh tế” này đã sống gần một thế kỷ dù có thể chỉ một mình má tôi nhớ đến nó. Xin cám ơn má đã cho con hiểu thêm giá trị của một loại hình văn học dân gian cũng như một lần nhìn lại bức tranh ảm đạm của nhân dân ta dưới ách thống trị trong thời kỳ Pháp thuộc.