Thứ Sáu, 19 tháng 12, 2008

LÃNG MẠN ĐỒNG BẰNG

Ảnh Trương Công Khả

MÙA XUÂN THÁNG CHÍN


Tháng chín điên điển vàng trên ruộng
Những cọng lúa non chưa trổ đòng đòng
Tháng chín chưa phải là mai nở
Mà ở nơi nầy, xuân về cũng khó kiếm một cành mai

Năm bảy thằng chiều rủ nhau đứng ngắm
Ven lòng kênh cỏ lác mọc vun đầy
Có một “rừng mai” bên trên thảm cỏ
Bớt nỗi nhớ nhà bởi bên cạnh có mùa xuân

Đời công nhân có lúc cũng bâng khuâng
Đêm nằm nghe nước chảy trong lòng dậy sóng
Hạt lúa mẩy vàng qua biết bao lận đận
Cái đói – cái nghèo í…ới gọi nhau!

Tôi gặp em bữa xuồng chống tắt đồng
Thân lầm lụi, tóc vương mùi rơm rạ!
Tuổi tôi và em vẫn còn quá trẻ
Đứa dạt quê nhà – đứa cặm cụi áo cơm

Bờ kênh mới đào phèn lựng trong xanh
Bông điên điển rụng em nhặt lên cài tóc
Nhà xóm trong “Em chống xuồng lâu lắm!”
Đơn vị đường xa em nói chưa rành

Hai tiếng “yêu em” tôi thốt không đành
Đã phiêu bạt lẽ nào thêm tình bạc!
Tôi sợ một ngày tình yêu phai nhạt
Như bông điên điển rơi vụn nát trên đồng

Chiều lặng lẽ trôi tôi đứng ngập ngừng
Dáng em khuất sau hàng điên điển
Mùa xuân đời em én có về chao liệng?!
Tôi viết thơ tình vội vả chẳng đề tên

Trở lại nơi đây Tết kề cận bên thềm
Cánh đồng cũ đã xanh màu lúa mới
Cô gái bằng tuổi em xưa – đang ngồi ca vọng cổ
Giọng ngọt ngào chiều sông Hậu vờn bay

Cánh mai vàng nằm hờ hững trên tay
Nhớ da diết một mùa bông điên điển
Ánh mắt em loang cả chiều tiển biệt
Xuân về thật rồi mà em ở đâu?!



CHUYỆN NGHE Ở VỈA HÈ



BỆNH GÌ VẬY?!


- Chú Hai! Báo chí đưa tin lại có thêm một nạn nhân của vi rút H5N1 trên toàn thế giới, như vậy số người chết vì dịch cúm gia cầm đã trên con số 60…
- Ừ! Tổ chức Y tế thế giới cũng cảnh báo các quốc gia cần đề phòng sự biến thể của con vi rút nầy. Nó mà lây từ người sang người thì…
- Đại họa hả chú?
- Đại thảm họa luôn! Nhưng, theo tao biết hiện nay ở một số địa phương của ĐBSCL cũng đang “lây lan” một loại bệnh, tuy chưa có người nào mất mạng nhưng hậu quả của nó cũng thật nặng nề…
- Bệnh gì mà ghê vậy chú?
- Tao cũng hổng biết phải gọi nó là bệnh gì! Nhưng đặc biệt nó chỉ “xảy ra” trong giới y – bác sĩ và “hoành hành” tại các bệnh viện Nhà nước!
- Chú nói cụ thể coi, úp mở hoài làm cháu ớn quá!
- Ớn cái gì! Bệnh nầy mấy có muốn cũng chẳng được đâu, phải học hành dữ lắm mới “bệnh” được. Đây nè, ở bệnh viện Đa khoa Cà Mau, chỉ tính riêng trong quý II-2006, trong số 8.900 lượt người điều trị bằng thẻ Bảo hiểm y tế, đã có đến 1.323 lượt người là y – bác sĩ của bệnh viện…
- Trời ơi! Tội nghiệp mấy ổng quá há!
- Ở chổ nầy còn “tội nghiệp” hơn, tại bệnh viện Đa Khoa Sóc Trăng trong năm 2005, có đến 4.932 lượt người là y – bác sĩ “bị” bệnh. Trong đó, có 4.885 lượt người điều trị ngoại trú. Tính bình quân mỗi y – bác sĩ “bị” bệnh 8,3 lần trong năm. Mầy có biết số tiền mà Bảo hiểm y tế tỉnh phải chi cho 590 cán bộ, y – bác sĩ của bệnh viện Đa khoa Sóc Trăng là bao nhiêu không? Gần nửa tỷ đồng!
- Dân lao động như chú cháu mình nghe đến tiền tỷ là “cháng váng” mặt mày rồi. Bác sĩ mà bị bệnh tới hơn 8 lần trong một năm, thì “vệ sinh” kém hơn cháu với chú quá rồi!
- Tao với mầy bị bệnh là thấy ông bà ông vải luôn. Chớ mấy ổng bị bệnh là có tiền à! - Tiền gì chú Hai?
- Thì đó, tiền điều trị ngoại trú của người dân ở Cà Mau chỉ trên dưới 34.000 đồng/người/lượt. Còn thầy thuốc bị nặng nên mỗi lần điều trị ngoại trú không dưới 50.000 đồng; có bác sĩ điều trị đến 800.000 đồng/lượt, và lãnh tiền thuốc ngoài danh mục trong quý II lên tới 1,7 triệu đồng. Nghe đâu bác sĩ nầy cũng thuộc loại “tai to mặt bự” nên “bị nặng” và điều trị “lâu” mà hổng ai dám ý kiến, ý cò gì!
- Như vậy cháu hiểu đây là bệnh gì rồi. Chuyện đục khoét công quỹ Nhà nước tưởng chỉ xảy ra ở những ngành nào đó, không ngờ tại bệnh viện là nơi mà lương tâm, trách nhiệm được đặt lên hàng đầu vẫn xảy ra…
- Theo tao, hậu quả nặng nề nhất là niềm tin của bệnh nhân đối với những người mà xã hội gọi là từ mẫu ấy sẽ giảm sút nghiêm trọng. Thử hỏi, ai dám đặt sinh mạng mình vào tay những con người như vậy? Lúc nào cũng tính toán “cách bệnh” để kiếm tiền!


Thứ Năm, 11 tháng 12, 2008

NÓI VỚI CON TẠI BIỂN VŨNG TÀU




(Ảnh Cửu Tỵ)

@ Cho con NGUYỄN TRẦN KHÔI NGUYÊN

Đến Vũng Tàu – chợt thấy thương con hơn
Mười hai tuổi chưa một lần đến biển
Đất xứ mình đồng bằng bão lũ
Làm sao con biết biển mặn thế nào?

Làm sao con biết biển nồng nàn đến đâu!
Biết cái khác biệt giữa biển xanh và đồng ruộng
Chiều Bãi Sau – trẻ tung tăng đùa giỡn
Cha đứng nhìn mà xót cả lòng

Chợt ước mình có phép nhiệm mầu
Thoắt một cái có mẹ và con bên cạnh
Cha sẽ nói với con câu: “Gừng cay muối mặn”
Cũng sinh ra từ lòng biển mênh mông

Ước thế thôi – rồi cha lại tự trách mình
Lúc mới vào đời – chọn chi nghề cầm bút
Bán từng câu thơ – tựa như người: “Năng nhặt...”
Nên lúc nào hạnh phúc cũng xô nghiêng

Thôi! Hẹn với con – và nói với biển Vũng Tàu
Xin hãy dành cho con một chổ
Biển hào phóng lắm - nhưng cha vẫn dặn
Như là đang nói với lòng mình

Thứ Tư, 10 tháng 12, 2008

THƠ VIẾT TỪ PHÒNG MỔ



* Kính tặng BS Kết và toàn bộ kíp mổ ngày 23-11-2007 BV Mắt Cần Thơ

Chẳng thể biết anh đã mổ mắt tôi như thế nào!
Bởi lúc ấy tôi chỉ thấy một trời ngũ sắc
Giai điệu tình tự quê hương vang lên dìu dặt
Không phải là bệnh nhân tôi đã ngủ mất rồi

Phòng mổ vô trùng ấm cúng tuyệt vời
Đèn điện sáng choang đâu thua gì khách sạn
Màu áo xanh dịu dàng càng thêm lãng mạn
Giá có chút men cay là nhất trên đời!?

Con mắt tôi chẳng biết ấm ớ thế nào
Nên phải phiền anh động dao động kéo
Nếu nỗi buồn phiền cũng lôi ra mổ được
Chắc quanh ta tràn ngập hoa hồng

Dường như đời anh cũng bến đục - bến trong!
Thành thật xin lỗi nếu có điều gì không phải
Anh mổ mắt giỏi - mổ trái tim đàn bà dở ẹt
Nên giờ đây cơm bụi một mình

Cái tật của tôi là chúa ăn nói linh tinh
Nên từ nhỏ đã là người chiến bại
Bài thơ đầu đời tặng cô bạn gái
Chẳng biết đọc hay chưa mà vội vã theo chồng

Bác sĩ và người làm thơ liệu có giống nhau?
Đường dao tài hoa - câu thơ tuyệt tác
Anh đem đến cho người ánh sáng
Tôi gởi tặng đời một chút niềm vui

"Hội chẩn" cuối cùng: xin cám ơn anh!
Cho tơi thấy lại bầu trời ước mơ thật đẹp
Cám ơn cả những cô, cậu gì rất trẻ
Xin xem bài thơ nầy như cái bắt tay

(Buổi chiều sau khi mổ mắt 23 - 11 - 2007)


Thứ Ba, 9 tháng 12, 2008

NHỚ MẸ QUÊ XƯA

(Ảnh Duy Anh)

Con còn nhớ những ngày nước lũ
Tiếng chim kêu chao chác bên hè
Mẹ dậy sớm nùi rơm ủ lửa
Tiếng thở dài con vẫn thường nghe

Rồi nước rút con sông trơ đáy
Mẹ xắn quần bì bỏm ngược dòng
Bê rổ ốc con cười hỉ hả
Không kịp nhìn mắt mẹ mênh mông

Trăm con nước đổ nguồn ra biển
Con trôi theo lũ cuốn cuộc đời
Háo hức tắm bao bờ bến lạ
Mẹ quê nhà ngồi đếm lá rơi

Cứ mỗi năm tháng chín nước về
Con chim lại bên hè chao chác
Khói rơm sớm làm nhòa tóc bạc
Tiếng thở dài mình mẹ lắng nghe

Sông chảy xuôi gió thổi ngược mùa
Trái tim biết bên nào bồi – lở!
Đời mẹ cứ nhớ thương vời vợi
Nước về rồi mà con vẫn xa

NHỚ BẠN


MỘT NĂM NGÀY MẤT VÕ MINH ĐƯỜNG


· Nhà thơ Võ Minh Đường, UV ban chấp hành Phân hội Văn học –
Hội VHNT TP. Cần Thơ. Mất ngày 19 - 02 – 2004.

Mới đó tròn năm rồi Đường ơi!
Phương nầy chớm lửa đỏ đầu môi
Rượu mời chếch bóng trăng hờn tủi
Ta biết hồn ngươi lỡ hẹn rồi

Ta biết hồn ngươi không về kịp
Cùng ta uống cạn hết ly nầy
Rượu cay như thể là nước mắt
Khốn khó đâu chừa kiếp thi nhân

Cũng bởi chọn nhầm đời thơ phú
Đến nỗi đưa ma chẳng mái nhà
Thi hữu phu nhân - chừng hóa đá
Vọng phu hề! Vọng cố nhân

Thắm thoát tròn năm mà không biết
Nhắc bạn nhớ ra bạn mất rồi
Còn biết bao điều chưa nói kịp
Trút hết nỗi lòng – đêm với ta

Thắm thoát rồi mai rồi mốt nữa
Biết nỗi nhớ nầy còn nhớ không?
Người đời vốn dĩ vô tình lắm
Mà buồn lại quá đỗi mênh mông

Một năm bạn bỏ đi lặng lẽ
Nhẹ tựa tiếng lá rơi nữa chừng
Quê nhà lâu quá chưa về được
Chắc hẳn chuyến nầy sẽ thảnh thơi

Thắm thoát tròn năm rồi Đường ơi!
Ta biết hồn ngươi lỡ hẹn rồi.

TÌNH GÀ



TÌNH GÀ!


Má tôi nói:
- Con gà tre đang “để ý” con mái nòi.
Nghe má tôi nói mà bắt tức cười. Cái vụ tình cảm “gà” nầy coi bộ nó làm sao ấy. Từ thuở tới giờ có thấy sách báo hay ai kể chuyện (dù là tiếu lâm cở Bác Ba Phi) cái vụ “gà yêu” bao giờ đâu. Vậy mà có đó! Lại xảy ra ngay nhà ba má tôi mới ly kỳ chớ.
Tôi đã có gia đình riêng và sống tại thành phố Cần Thơ. Thỉnh thoảng, rảnh rỗi lại xách xe dọt về Lộ Tẻ Ba Xe, vừa thăm ba má tôi sức khỏe thế nào, vừa hưởng được một chút không khí trong lành của làng quê và biết đâu gặp một đề tài gì đó hay hay có thể viết thành bài báo, truyện ngắn kiếm chút đỉnh nhuận bút lai rai cà phê, cà pháo. Ba má tôi đều đã ngoài bảy mươi, sống với cô em gái út chưa lập gia đình. Phía đối diện nhà là một ngôi trường PTCS của xã, hàng ngày học sinh tới lui tấp nập. Má tôi dù đã lớn tuổi nhưng vốn quen tảo tần nên hàng ngày bà làm bánh, nấu xôi bán cho tụi nhỏ và cả người lớn, trước khi ra ruộng ghé vào ăn 500 đồng xôi, uống ly nước trà nóng không tính tiền cho thêm khí thế chiến đấu với cỏ lác, lung bàu. Lâu ngày, cái mái che nho nhỏ trước nhà trở thành điểm dừng chân của mấy người đàn bà trong xóm. Đi chợ Cầu Sắt về ghé “buôn dưa lê” một chút, chiều rảnh rang tạt ngang chuyện vãn đôi câu. Có ổ gà nòi mới nở cũng đem lại bán rẻ, buồng chuối chín bói, vài chục dừa khô... Nói chung, má tôi thầu tất. Và chính vì vậy mà số gà, vịt má tôi nuôi trong nhà “hổng chừng hổng đổi”: Một chị gà mái nòi đã đủ tuổi “lập gia đình”; Một chú gà trống tre tuy nhỏ con nhưng cũng đã trưởng thành từ lâu; Một bầy gà giò đủ cở đâu chừng hơn chục con... Mà ba má tôi nuôi gà, vịt chủ yếu là để ăn thịt nên chuyện giống má hổng quan trọng.
Nghe bà già nói vậy, tôi bèn để ý thử coi chuyện yêu đương của cô cậu gà nầy như thế nào. Mà nó lại tréo ngoe cái chuyện dòng giống, sức vóc nữa mới chết chứ. Trưa đó, tôi xách cái võng ra góc vườn lựa chổ thuận lợi nằm quan sát lũ gà đang kiếm ăn ở góc vườn.
Nhân vật chính của “chuyện tình” nầy là cô mái nòi đang ở vào giai đoạn đẹp nhất của đời “gà”. Cặp chân cao ráo, được phủ trên thân “gà” một lớp lông vàng nhạt chen lẩn màu xám, điểm xuyết thêm để làm duyên là những đốm màu trắng, đen làm cho chị ta có một cái gì đó vừa thu hút, vừa bí ẩn chết “gà”. Nhưng có lẽ nổi bật nhất là chiếc cần cổ, nó không trụi lủi, trần tục như mấy anh trống nòi mà được che bằng những sợi lông tơ mịn màng, đôi chổ không kín đáo lộ ra một màu da đỏ hồng như quyến rũ, mời gọi. Chỉ trông cái cách chị ta kiếm ăn cũng đủ biết đấy là một cô nàng gà “yểu điệu thục nữ”. Cũng bươi quào, cũng mổ, cũng quẹt mỏ như mấy anh chàng kia nhưng trong cái cách ăn uống của chị ta có cái gì đó vừa đủng đỉnh, vừa điệu đàng như thể cái chuyện làm đầy bao tử thật ra đối với cô ả là không cần thiết.
Không biết trong thế giới gà tình cảm có phân biệt giai cấp, địa vị, sang hèn gì không? Chứ thoạt trông thì anh chàng gà tre kia rõ ràng là bất lợi. Như một vị tiểu tướng ngày xưa trước giờ ra trận, bộ lông sặc sở đủ màu sắc, mà màu vàng, đỏ nắm vai trò chủ đạo như chiếc áo giáp loáng nắng mặt trời. Những cọng lông đuôi vồng lên, hai chiếc cựa nhu nhú mặc dù chưa được nhọn lắm nhưng cũng đủ để thiên hạ biết “ta” là một tay võ sĩ chuyên sử dụng song đao.
Ở góc vườn có một ổ mối, ba tôi vừa mới phá đi nên lũ gà cứ bu vào đó mà cục cục, tác tác no bụng. Quan sát một hồi tôi nhận ra quả là chú gà tre có vấn đề, quanh qua quẩn lại là te rẹt – te rẹt xáp lại gần con mái nòi, nó xòe một bên cánh nghiêng mình bắt đầu vũ khúc giao hoan. Thế nhưng, chục lần như một vừa xáp lại gần là y như chú ta nhận một cái mổ “yêu” của cô mái nòi ngay chóc vào chổ đội mão. Chẳng biết có đau không? Nhưng chắc chắn đã làm chú ta “cục hứng” có vẻ mắc cở lảng ra xa. Nếu ở con người, để nói về mấy anh chàng mê gái lì lợm là “mặt dày mày dạn”, thì cụm từ nầy đem gán cho anh chàng gà tre cũng không có gì quá đáng, vì chỉ độ năm, bảy phút thôi là anh ta lại xáp tới trổ mòi “dê’ chị mái nòi. Cũng chỉ mấy câu tán tỉnh rẻ tiền đó (nếu bạn nghe được ngôn ngữ của loài gà), cũng điệu bộ xum xoe đáng ghét và có lẻ cái vũ khúc hoan lạc mà anh ta biểu diễn xem chừng không hấp dẫn lắm, nên chị mái nòi chẳng buồn ghé mắt chứ đừng nói động lòng.
Xong chuyện làm no cái bầu diều, lũ gà cũng có nhu cầu nghỉ ngơi như loài người, nên con nào cũng tìm một chổ nằm lim dim. Phía trái nhà ba tôi có trồng một cây nhãn, do bị “rập” nên không ra trái dù được trồng đã khá lâu. Chị mái nòi tót lên một cháng ba cách mặt đất khoảng một mét, yên vị ở đó đợi bữa ăn chiều. Gà yêu ở đâu là ta ở đó… gà tre ta nhất định không xa gà yêu dù là một tấc. Thế nhưng, khi cu cậu vừa đập cánh nhảy lên, định đậu ké bên cô gà yêu mà thả hồn theo mộng đẹp thì y như rằng một nhát mổ “yêu” đã làm chú ta dội ngược trở lại. Đứng dưới đất nhìn lên, dù lúc nào cũng tự hào mình là một trang nam tử sức trẻ đang dâng trào như lũ cuốn, cộng với trái tim sùng sục yêu đương nhưng gà tre cũng hiểu rằng chuyện “đậu” cạnh gà yêu, cánh kề cánh là không thể. Nên cuối cùng cu cậu đành ngậm ngùi nhảy lên một cành nhãn thấp hơn ngay phía dưới chị mái nòi, làm một vệ sĩ canh giấc ngũ cho gà yêu.
Chuyện yêu đương, tán tỉnh của cô cậu gà cứ diễn ra như thế đều đặn mỗi ngày như đoạn phim được chiếu đi, chiếu lại. Cho đến một ngày cậu em rể của tôi mang cho ông nhạc mình một con trống nòi. Lần ấy, từ Cần Thơ về vừa trông thấy con trống nòi tôi biết ngay rằng bi kịch sẽ xảy ra. Trong cuộc tình tay ba nầy, kẻ thất bại chắc chắn sẽ là cậu gà tre nhỏ bé. Biết làm sao được định mệnh đã an bày như thế, chỉ trách đã là gà mà cậu ta lại có một trái tim yêu đương quá dạt dào. Vừa nằm võng quan sát tôi vừa suy nghĩ cách giải quyết vì suy cho cùng những kẻ “đa tình” nào có lổi gì!?
Cặp vợ chồng gà “mới cưới” quấn quít nhau không rời suốt thời kỳ trăng mật. Cả hai tách ra khỏi đám gà giò đưa nhau kiếm ăn ở góc vườn, anh gà trống hùng hục bươi lấy bươi để rồi cất tiếng “tục tục” như muốn nói với gà vợ yêu: “Em hãy ăn đi, đây là những món ngon nhất anh dành cho em…”. Cô vợ thong thả mổ từng miếng một, khi nhìn vào người ta thấy ngay niềm hạnh phúc hiển hiện qua từng nhát mổ, từng tiếng “gù gù”. Chỉ tội cho cu cậu gà tre, gà yêu đã ôm cầm sang thuyền khác mà sao lòng vẫn thương nhớ khôn nguôi. Cậu ta lò dò kiếm ăn cách đôi vợ chồng trẻ ấy khoảng một mét, theo dỏi không sót một động tịnh gì của tình địch. Những kẻ mù quáng vì yêu thường liều mạng, điều đó thật đúng với tình huống mà tôi chứng kiến sau đây. Thừa lúc anh trống nòi “phởn chí” đuổi theo con cào cào đang nhảy trối chết về một góc vườn. Gà tre ta xáp lại gần cô vợ, xòe cánh nghiêng mình định giở trò “trộm liễu vườn đào”. Than ôi! Vũ khúc hoan lạc vẫn chưa diễn trọn, thì anh chồng có lẻ linh tính một điều gì bất ổn đã quay trở lại. Nhìn thấy một “thằng nhóc” đang tán tỉnh vợ mình, máu ghen bốc lên ngùn ngụt làm cho cái mặt đã đỏ nay càng đỏ thêm. Không nói không rằng, chỉ với một cú song phi gà tre ta đã trở thành bại tướng. Đã vậy, nhưng hình như gà tre vẫn chưa tởn. Khi thấy tình hình có vẻ lắng dịu, cu cậu mon men rề rề lại gần cô “vợ hụt” đến nỗi làm anh trống nòi ngứa mắt, nổi xung thiêng rượt chạy cong đuôi.
Thật tội nghiệp và cũng thật đáng ca tụng một tấm chân tình, lấy hạnh phúc của gà yêu làm hạnh phúc của riêng mình. Khi đôi vợ chồng gà kia đã “cành êm” cùng lim dim mắt trên cây nhãn, thì gà tre ta cũng có mặt tại chổ quen thuộc của mình, tình nguyện làm một tên lính gát không công.
Đã nhiều lần tôi tự nghĩ ra một cái kết thúc “có hậu” dành cho con gà tội nghiệp nầy, trong đó việc tìm vợ cho nó được ưu tiên hàng đầu. Thế nhưng, dự định của tôi vẫn chưa thực hiện được thì chuyện đã xảy ra. Trước đó mấy ngày, một cậu bé học lớp 5, sang nhà má tôi mua đồ ăn thấy con gà tre đẹp quá đâm mê mẩn. Nó dành dụm mãi đâu được bốn, năm chục ngàn gì đó sang năn nỉ má tôi để lại. Một con gà tre bé tí mà được trả như thế thì đúng là “lãi to”, thế nhưng tôi đã cản không cho má tôi bán nó đi vì một điều đơn giản: đây là một con vật có tình. Mà tình cảm dù là của một con vật cũng không thể đem đồng tiền ra mua được.
Nhà ba má tôi nằm trên lộ Vòng Cung, một con lộ nổi tiếng trong chiến tranh vì sự ác liệt của nó. Sau ngày thống nhất đất nước Nhà nước đã cho đổ nhựa phẳng lì, mấy anh chàng xe ôm tha hồ rồ ga đưa rước khách. Lượng xe qua lại trước nhà ba má tôi ngày càng nhiều hơn, nhất là từ khi có các loại xe Trung Quốc, rẻ rề mà cũng xanh đỏ đẹp mắt như ai. Trưa hôm đó tôi đang lim dim trên võng ngoài vườn, nghĩ đến chuyện ngày mai đi chợ tìm mua con gà tre mái thì bỗng nghe một tiếng: “quác” thật lớn, sau đó là những tiếng đập cánh liên tục rồi im bặt. Chuyện xe ôm cán chó, cán gà trên con đường nầy như cơm bữa nhưng không ngờ “nạn nhân” lại là nó. Không biết có phải vì cú va đập quá mạnh làm nó quáng quàng chạy sảng, hay vì nó muốn chết ngay nơi chứa đầy những kỷ niệm tình yêu mà đã cố chạy vào tới gốc nhãn mới nằm dãy chết.
Tất nhiên, dù nó là con gà tre biết yêu thì tôi vẫn phải nấu nước sôi làm thịt. Mổ nó ra, khi làm tới bộ đồ lòng tôi thấy trái tim của nó đen bầm, dập nát. Một trái tim tan nát vì tình hay bầm dập vì tai nạn giao thông cũng đều dẫn tới cái chết.
Nhưng tôi cứ muốn nó chết vì tình để thi vị hóa đời gà.


QUÊ TÔI VÙNG SÂU

(Trẻ miền quê - ảnh Duy Anh)

VỌNG CỔ

QUÊ TÔI VÙNG SÂU

oOo

· NGY UYÊN

Nói lối:

Quê tôi – bè bạn gọi vùng sâu
Độ mặn của nước tính bằng lớp lớp váng phèn
bám vào da cha – da mẹ
Tóc ông nội bạc lẫn cả màu vàng của nắng
Lưng bà còng – cong như con ốc lác mùa khô

VỌNG CỔ

I. Như con ốc lác mùa khô, lưng bà tôi ngày thêm còng xuống. Còn bông lúa đồng xa nắng cháy úa thêm… dần. Vùng sâu quê tôi gian khó chất chồng. Ngày cha tôi sinh ra, ông nấu nước chụm rơm làm lông mày cháy xém; cánh đồng giáp hạt ngày chào đời cha nhận làm nôi. Ông hay tự trào: “Tao dốt đặc cán mai, bây ráng học để làm người nhân nghĩa”. Vậy mà Lục Vân Tiên không hiểu sao ông chẳng quên một chữ; cái nghĩa “bất bằng” bám vào ông như rễ còng, rễ đước.

II. Vùng sâu quê tôi quanh năm nghèo khó, hết sợ đạn bom lại tới nạn thiên thời. Thiếu mặc, đói ăn cái điệp khúc ấy cứ ngân hoài. Bông súng, cù nèo càng ngày, càng ít; hạt gạo dầu hơi nửa trắng, nửa vàng không có mà ăn. Chúng tôi lớn lên bằng tiếng hò ơ; bằng số phận nàng Kiều trong câu thơ lục bát. Mẹ bảo chúng tôi nhớ câu: “nhân sinh tự cổ”; cha cũng dạy rằng: “cái cò lặn lội bờ sông”.

Ngâm:
Hò ơ!
Quê mình nghèo lắm ai ơi!
Hai sương một nắng mong ngày ấm no
Chiều nghiêng nắng trĩu con đò
Bôn ba nhớ bóng mẹ dò trước sân

VỌNG CỔ

V. Vùng sâu quê tôi bạc tiền không có, nhưng dư dã yêu thương và thắm đượm nghĩa… tình. Biết tìm được ở nơi đâu như chốn quê mình. Thiếm Bảy chèo xuồng đưa tôi ngày lên phố học; bác Năm nghẹn ngào dúi mấy đòn bánh tét kèm theo. “Ráng học nghe con thành tài về giúp quê, giúp nước”. Suốt bao nhiêu năm dẫu nghìn nan vạn khó; tôi cũng không quên câu dặn dò chung của cả xóm nghèo.

VI. Vùng sâu quê tôi hôm nay đã dần thay đổi. Cũng bến nước con đò, hàng cau đường làng rũ bóng. Cũng người nông dân nhọc nhằn sớm tối, hạt gạo nồng nàn thắm đượm mồ hôi. Cũng lũ bạn đầu trần chân đất, thân nhau từ độ mới biết bò, biết lẩy. Vùng sâu quê tôi xưa nay vẫn vậy, chỉ khác chăng đầu làng cuối xóm, trong ánh mắt thân thương quanh đây đã vang rộn tiếng cười.

Thành thị xa cứ nhớ mãi vùng sâu
Đêm thắt thỏm tiếng ểnh ương: “quềnh quệch”
Mẹ lên thăm kể: “Quê mình có điện”
Tôi nghe mà nước mắt cứ rưng rưng.

Thứ Hai, 8 tháng 12, 2008

CHUYỆN NGHE Ở VỈA HÈ

Tranh Đỗ Duy Tuấn

TIỂU PHẨM

SÁCH GIÁO VIÊN


- Ê! Năm… theo mầy cở thạc sĩ là đã đủ năng lực, uy tín để soạn sách bồi dưỡng giáo viên bậc trung học chưa?
- Chú Hai nói sao? Thạc sĩ hả? Để coi, thạc sĩ tức là đã trên đại học, đương nhiên là làm “thầy của thầy” được quá đi chứ! Ủa! Mà sao bữa nay chú lại quan tâm đến chuyện ở tầm “vĩ mô” chi vậy? Chạy xe từ sáng tới giờ đủ tiền đong gạo chưa đó?
- Không phải tao quan tâm đến chuyện lớn, chuyện nhỏ gì! Cái làm tao thắc mắc, nghĩ cách gì cũng không ra… là tại sao trong loại sách bồi dưỡng giáo viên ấy lại hướng dẫn dạy cho học sinh là trong “Bình Ngô đại cáo” Nguyễn Trãi đã: “lúc lên án tố cáo tội ác kẻ thù, tác giả tố cáo hành động huỷ diệt môi trường sống… ông là “người xưa của ta nay” trong vấn đề bảo vệ môi trường”!
- Chú thắc mắc chuyện “Bình Ngô đại cáo” sao lại hỏi cháu vụ thạc sĩ, tiến sĩ?
- Thì đây, mầy coi “Thạc sĩ Phạm văn Hận, Phó chủ tịch quận Lê Chân, TP. Hải Phòng… chưa tốt nghiệp cấp hai phổ thông”, tức là chưa qua chương trình lớp 9 nữa! Vậy mà, ổng lên tới thạc sĩ. Liệu mấy ông “cái gì sĩ” soạn sách ấy, có nhảy cóc lớp lá, lớp mầm gì không mà “tư duy lô gích” kinh hoàng đến như vậy!
- Hổng phải đâu chú ơi! Cái nầy mấy ổng muốn làm một công đôi chuyện đó mà. Như cháu vừa bán cà phê, kê thêm kệ vé số. Còn chú thì chạy xe ôm, gom thêm mớ đồ may sẳn vậy mà. Kiểu con nhà nghèo tham công tiếc việc thôi! Chú thắc mắc làm gì!
- Hổng thắc mắc sao được mậy! Thằng lớn của tao năm nay lên lớp 10, hổm rày tao với bả lo muốn rạc người ba cái vụ tiền quần áo, sách vở. Dạy cái kiểu “gởi kèm” ấy tao sợ mai mốt thi đại học nó nói “đồng minh cùng phe việt minh” thì coi như mọi cố gắng của tao với bả đổ sông đổ biển.
- Chú nói cũng phải, nhưng nghe đâu ông giáo sư chủ biên soạn loại sách nầy là người có tiếng tăm dữ lắm. Ổng đã nói trên báo, đài mấy cái lổi “gì đó” thuộc khâu in ấn, còn vụ “Môi trường” thì đó là chủ trương lúc đầu, sau đó thì bỏ rồi…
- Lại còn đầu với đuôi nữa? Chỉ mới nghĩ thôi đã thấy nó trớt quớt rồi, nói gì đến việc nâng lên thành chủ trương, chủ xị! Đừng đổ thừa cho nhà in, giống trẻ mẫu giáo lắm. Nếu lổi ở chuyện sai chính tả như “tu” mà in thành “tù” thì có gì đáng nói. Người đọc dễ dàng đoán ra, đằng nầy đây lại là một cách dạy, một phương pháp sư phạm mầy biết không? May mà nhờ báo chí phát hiện ra. Ê! Năm! còn số sách “môi trường” đã in ấn, phát hành rộng rải thì xử lý thế nào đây? Tiền của ai chịu?!
- Thì in thêm phần đính chính như báo chí vẫn làm đó, có sao đâu! Cùng lắm thì bỏ, in lại. Tiền Nhà nước chớ tiền cá nhân ai đâu mà chú lo.
- Bác Hồ đã nói: “Vì lợi ích trăm năm trồng người” mà sao tao thấy mấy ổng làm ăn cái kiểu “được chăng hay chớ” rồi “xin tì làm lại” nầy tao lo cho mấy đứa nhỏ ở nhà quá!
- Thôi chú đừng lo cái chuyện xa vời đó nữa! Chuyện tiền góp chiều nay nè, chú lo xong chưa? Chú không biết hồi đó Nguyễn Công Trứ đã nói: “Nợ tang bồng vay trả trả vay” sao? Chú mà không góp đủ cho con Tám, sức mấy nó cho chú vay cái mới.

NHỮNG NÉN NHANG CẮM TRÊN ĐẦU GIÓ

Ảnh Duy Anh

Những nén nhang cắm trên đầu gió
chiều đưa thoang thoảng mênh mang
Bóng hoàng hôn sợi khói vờn trăng
Dịu dàng lời ru mẹ
Đất nước chúng tôi
những điều thật lạ
Nghĩa trang nào cũng có mộ liệt sĩ vô danh
Những người đàn bà lần lượt tiễn con
Thằng Út, con Ba
không tìm được xác
Mẹ thắp nhang cắm trên đầu gió
Bao hồn phách anh linh
Bao nhiêu năm rồi
Vẫn đầy nỗi nhớ về con
không vơi tấm lòng người mẹ
Những nén nhang cắm trên đầu gió
rực đỏ

Đừng so sánh nỗi đau
Đừng ai đo đếm những cái nhói lòng
Người phụ nữ Việt Nam
người mẹ anh hùng
Cậm cụi tảo tần
đầu làng cuối chợ
cánh cò, cánh vạc

Đất như người cũng biết trở trăn
Quê hương nầy còn giặc ngoại xâm
Mẹ xẻ thịt, banh da
nuôi con lớn khôn
hiến dâng cho tổ quốc
Những nén nhang cắm trên đầu gió
Sợi khói dồn thời gian trắng mái đầu
Mẹ còng lưng vác nỗi nhớ trên vai
Khi chiều xuống
Trên đầu gió
rực đỏ
Những nén nhang đứng thẳng

SÁCH - NGUYỄN TRUNG NGUYÊN


Tập Bút ký - "Lời khẩn cầu cảu đất" của tác giả Nguyễn Trung Nguyên vừa ra mắt bạn đọc vào những ngày cuối năm 2008. Gồm 5 bút ký nhân vật và 4 ký sự về các vùng đất mà tác giả đã gắn bó.

NÓI VỚI CHÚ CHIM CÔ ĐƠN

Tranh Đỗ Duy Tuấn

Buổi trưa chim hót trên đầu nắng
Gió đuổi mây bay kéo hạ về
Chim kêu ý bảo chừng ta nghỉ
Vui gì sáng tối cứ còng lưng

Chim ạ! đành rằng tay cầm bút
Nay thử cầm leng vẫn thẳng hàng
Xong chuyện áo cơm ta sẽ nhớ
Trồng một luống hồng mi ghé sang

Ta sẽ trồng lại cả thời tuổi trẻ
Đã lở tay hoang phí dọc đường
Nếu được mi cứ về làm bạn
Cận kề ríu rít chuyện yêu đương

Buổi trưa chim hót nghe là lạ
Sao chẳng sóng đôi chỉ một mình
Chả lẽ mi cũng buồn mất bạn?!
Một mình một bóng nắng rung rinh

Mi làm ta nhớ thời trai tráng
Vụng trộm làm thơ bỏ hộc bàn
Thiên hạ có xem không chẳng biết
Đến giờ sực nhớ chợt bâng khuâng

Thôi nhé! có buồn mi cứ hót
Ta phải đào xong hết luống nầy
Mai cây ra quả, hồng xanh lá
Chắc hẳn tiếng cười sẽ vút bay.

Chủ Nhật, 7 tháng 12, 2008

CẦU CẦN THƠ




XÓM TÔI ĐÁM GIỖ

(
Thay nén hương kính viếng hương hồn những người tử nạn
trong tai nạn sập nhịp dẫn cầu Cần Thơ ngày 26-9-2007)
* NGUYỄN TRUNG NGUYÊN

Ba trăm sáu mươi lăm ngày! Đã đúng một năm
Xóm nghèo Bồ Đề vết thương vừa kín miệng
Bữa nay cả làng Mỹ Hòa làm đám giỗ
Vương vấn khói hương – leo lét nỗi buồn

Thiếm Năm – chú Hai nhà có đám không mời
Bởi bà con ở đây đều cùng chung một niềm tưởng nhớ
Tai nạn kinh hoàng cầu Cần Thơ – nhịp dẫn…
“Ba ơi!” tiếng gọi khản giọng năm xưa nay vọng trở về

Em gái run run đặt lên bàn thờ
Giấy báo trúng tuyển vào trường đại học
Đã bao đêm tập vở nhòe nước mắt
Vòng tay không quen che chở cuộc đời

Một năm trôi qua tóc mẹ bạc nhiều
Thắp nén nhang cho con, mẹ ngước nhìn nóc nhà đã kín
“Nó tính lãnh lương xong mua lá lợp mấy nơi bị dột…”
Khoác áo lên vai đi mãi không về

Người vợ trẻ làm dâu chưa được mấy ngày
Đêm thao thức ôm chiếc áo cũ của chồng không dám giặt
Tất bật dâu – con hai bên nội ngoại
Bóng đổ nghiêng nghiêng chiều xuống một mình

Đường vào làng lá đã rợp xanh
Cầu lại nối nhịp – lúa trên đồng lại chín
Đám giỗ cả làng có thêm những người khách không mời mà đến
Nỗi đau chung đâu thể nào quên!

HOẠI THƯ


KỊCH BẢN

HOẠI TỬ

CÁC VAI:

1. TÁM TÂN: 45 tuổi – chủ quán cà phê, từng có thời gian sử dụng ma túy, đã cai nghiện được 8 năm.
2. VỢ TÁM TÂN: 40 tuổi – buôn bán ngoài chợ
3. TÚ: 15 tuổi – con chú Tám Tân
4. HÙNG: bạn Tú – ghiền ma tuý
5. VÂN: 14 tuổi – cháu Tám Tân – phụ bán quán
6. BS TIẾN: làm việc tại Trung tâm cai nghiện.
7. BÁC NĂM: Tổ trưởng dân phố.
8. CÔNG AN: một người.
9. DÂN PHÒNG: Hai người.


CẢNH I

Buổi sáng tại nhà Tám Tân, một quán cà phê, bày biện khá tươm tất. Tám Tân đang lui cui nấu nước, vợ chú từ trong bước ra, tay xách giỏ.

VÀO KỊCH

- TÁM TÂN: - Ủa! Sao bữa nay bà đi trể vậy?
- VỢ 8 TÂN: - Độ rày buôn bán ế ẩm nên tui cũng hổng muốn dọn hàng sớm. Con Vân đâu rồi?
- TÁM TÂN: - Tui sai nó chạy mua thêm ký cà phê? Bà kiếm nó làm gì?
- VỢ 8 TÂN: - Thấy vắng thì hỏi vậy thôi! Lúc nầy quán cà phê của mình coi bộ cũng vắng khách hả ông?
- TÁM TÂN: - Ai nói với bà vậy? Đông hơn thì có! Bà không thấy cà phê hết liền liền đó sao?
- VỢ 8 TÂN: - Cà phê hết liền liền mà tiền thì không thấy!
- TÁM TÂN: - Ủa! Bà nói gì lạ vậy? Tiền gì không thấy?
- VỢ 8 TÂN: - Tui để ý thấy cả tháng nay rồi, cuối tuần cộng sổ các khoản chi ra thì bình thường nhưng tiền thu vào thì ngày càng giảm dần. Mà nhà mình có mua sắm cái gì đột xuất đâu, hơn nữa nếu mua thì tui cũng phải biết chớ…
- TÁM TÂN: - Chuyện sổ sách một tay bà quản lý, tôi có biết gì đâu…
- VỢ 8 TÂN: - Nhưng ông là người đứng bán, trực tiếp thu tiền…
- TÁM TÂN: - Thì bán đồng nào tôi bỏ vào tủ đồng đó, có giấu giếm xài riêng cái gì!
- VỢ 8 TÂN: - Chồng con xài thì tui đâu có nói! Tui chỉ sợ…
- TÁM TÂN: - Bà sợ cái gì? Hay là bà nói tui… (ngập ngừng)… chơi bời trở lại?!
- VỢ 8 TÂN: - Ông quay trở lại con đường đó làm sao mà qua mắt tui được, vợ chồng mười mấy năm thì đã có ba, bốn năm tui phải chịu đựng căn bệnh đó của ông rồi. Bây giờ, ông chỉ cần một thay đổi nhỏ thôi là tui biết liền.
- TÁM TÂN: - Vậy bà sợ cái gì nói tui nghe coi… (giọng đã có vẻ lớn tiếng).
- VỢ 8 TÂN: - Tui hỏi ông trong tháng nầy, ông có xài khoản tiền nào khác ngoài việc mua bán mà quên hay không? Hay là ông gởi tiền về cho ba má mà không cho tui hay?
- TÁM TÂN: - Bà nầy nói lạ! Cho tiền ba má thì có gì mà phải dấu… À! Hôm trước thằng Tú có xin tôi 100 ngàn đóng tiền học thêm gì đó…
- VỢ 8 TÂN: - Cái đó tui biết rồi. À! Lúc rày ông có cho tiền con Vân ăn sáng không?
- TÁM TÂN: - Mỗi ngày 3 ngàn, cuối tháng cho nó thêm 300, cái nầy tui với bà thống nhất rồi mà?
- VỢ 8 TÂN: - Thì thống nhất… bây giờ tui tính thế nầy. Từ trước đến nay mình vẫn quen để tủ tiền không khóa như vậy, mà quán xá người ra kẻ vào. Đây tui có mua sẵn một ổ khóa nhỏ rồi đây. Ông cứ khóa lại, khi nào cần thì mở ra… Đây, ổ chìa đây.
- TÁM TÂN: - Thôi, tui hiểu rồi…
(Đúng lúc đó thì Vân về tới, tay cầm bọc cà phê)
- VÂN: - Chú Tám ơi! Cà phê lên giá nửa rồi…
- VỢ 8 TÂN: - Lên gì lên liền liền vậy?
- VÂN: - Dạ! Con đâu có biết…
- VỢ 8 TÂN: - Mầy thì biết gì! Thôi tui phải ra chợ dọn hàng, thằng Tú dậy ông cho tiền nó ăn cái gì đó. Hổng biết làm gì mà độ nầy nó thức khuya quá… nghỉ hè rồi có thi cử gì đâu.
- TÁM TÂN: - Rồi! Được rồi, bà ra chợ đi, trưa trờ trưa trật rồi. – (quay sang Vân) – Vân! Bây vô trỏng coi thằng Tú thức chưa, rồi dọn dẹp nhà cửa luôn. Thằng đó là bầy hầy lắm.

(Vợ 8 Tân xách giỏ bước ra, Vân đi vào trong. Tám Tân cầm ổ khóa bước tới móc vào hộc tủ, bóp thử rồi lấy chìa khóa mở đi, mở lại, mặt đăm chiêu nghĩ ngợi. Bác Năm – tổ trưởng bước vào)

- BÁC NĂM: - Tám! Cho tao cái đen coi mậy.
- TÁM TÂN: - Dạ! Chú Năm đợi con một chút. – (Tám Tân pha ly cà phê đem tới cho bác Năm, kéo ghế ngồi xuống im lặng, gương mặt thừ ra).
- BÁC NĂM: - Ủa! Sáng nay có chuyện gì coi bộ mầy lạ vậy? Vợ chồng có chuyện rồi hả… Thôi đi Tám ơi! Tránh vợ chẳng xấu mặt nào…
- TÁM TÂN: - Dạ! Không có gì đâu chú… nhưng vợ con nó nghi ngờ bậy bạ quá!
- CHÚ TÁM: - Nó nghi mầy có mèo hả gì mà bậy bạ?
- TÁM TÂN: - Hổng phải vậy! Hồi sáng nầy trước khi ra chợ nó nói với con, cả tháng trời nay tính sổ thấy tiền hao hụt đi đâu không biết. Nó nghi có ai lén lấy cắp nên mua một ổ khóa kêu con khóa tủ lại. Mà nhà nầy thì có ai đâu… thằng Tú, rồi con Vân… con sợ vợ con nghi ngờ con Vân thì tội nghiệp con bé lắm…
- CHÚ TÁM: - Con Vân là cháu ruột mầy à?
- TÁM TÂN: - Dạ! Vân là con ông anh thứ hai. Nhà nó ở dưới quê, tới năm chị em lận, ba má nó quanh năm vất vả ruộng rẫy mà vẫn thiếu ăn. Lần đó về đám giỗ, thấy ổng bả cho nó nghỉ học đi làm mướn, thương tình vợ chồng con đem nó về đây phụ bán quán. Đợi cho nó quen nước, quen cái một thời gian con sẽ sắp xếp cho nó học bổ túc văn hóa ban đêm.
- BÁC NĂM: - Ừ! Mầy tính vậy nghe được đó. Mà con nhỏ tao thấy cũng hiền lành, ngoan ngoãn.
- TÁM TÂN: - Thì vậy! Mà con nhỏ thật thà lắm chú. Có lần vợ con đi tắm bỏ quên sợi dây chuyền, nó nhặt được đem đưa tận tay… hay là vợ con nó nghi…
- BÁC NĂM: - Nghi mầy chớ gì? Hổng có đâu, khu phố nầy ai không biết mầy đoạn tuyệt với ma túy chín, mười năm rồi. Nếu nghi mầy thì dại gì nó đưa chìa khóa tủ tiền. Giao trứng cho ác à? Đàn bà họ tinh ý lắm Tám ơi! Thôi cứ chiều theo ý vợ mầy, khóa tủ lại, mỗi lần thối tiền hay cần chuyện gì thì mở ra, mắc công một chút mà yên ấm cửa nhà.
- TÁM TÂN: - Dạ! Thì con có trái ý nó đâu… À! Mà chú ghé uống cà phê hay có chuyện gì?
- BÁC NĂM: - Mãi lo nói chuyện nên quên. Tao ghé kêu mầy độ 9 giờ tới khu phố họp. Bữa nay chú Hoàng khu vực xuống phổ biến cuộc vận động “Toàn dân tham gia phòng chống tệ nạn xã hội”. Chú muốn nghe ý kiến của những người đã từng là nạn nhân của các loại tệ nạn nầy, nay đã trở thành người tốt. Chính đóng góp của những người như mầy là thiết thực và hiệu quả nhất trong việc giữ gìn an ninh trật tự khu phố.
- TÁM TÂN: - Dạ! Được rồi, để con sắp xếp quán sá rồi xuống liền.
- BÁC NĂM: - Vậy hén! Thôi tính tiền cái đen cho tao.
- TÁM TÂN: - Thôi chú, có cái đen mà…
- BÁC NĂM: - Nói chơi hoài mậy, một ngàn là một ngàn – (Bác Năm lấy một ngàn đồng dằn xuống dưới ly cà phê) – tao phải qua mời ông Bảy thời sự và bà Hai cô đơn nữa. Thôi tao đi, nhớ đến đúng giờ nghe Tám.

(Bác Năm đi ra, Tám Tân dẹp ly cà phê, lấy một ngàn đồng bỏ vào tủ khóa lại. Rồi như sực nhớ điều gì chú mở ra, lấy xấp tiền chẳn có cột dây thun bỏ vào túi quần, coi lại mớ tiền lẻ trong hộc tủ, rồi tháo ổ khóa ra bỏ luôn vào trong hộc tủ)

- TÁM TÂN: - Vân ơi! Ra chú biểu coi con.
- VÂN: - (chạy ra, tay cầm chổi lông gà) – Dạ! Chú kêu con.
- TÁM TÂN: - Thằng Tú thức chưa?
- VÂN: - Dạ chưa!
- TÁM TÂN: - Được rồi! Bây coi chừng quán xá, khi nào thằng Tú dậy đưa nó 10 ngàn tiền ăn sáng chú để trên đầu tủ đó. Chú phải qua khu phố họp bây giờ đây.
- VÂN: - Dạ! Chú cứ để đó cho con, chú đi họp đi.
(Tám Tân bước ra ngoài,Vân cầm chổi lông gà phủi phủi bàn ghế rồi bước tới quầy lui cui chụm lửa. Tú từ trong bước ra, đồng phục học trò nghiêm chỉnh, vừa đi vừa ngáp)
- TÚ: - Vân, ba anh đi đâu rồi?
- VÂN: - Dạ! Chú Tám đi họp bên khu phố, chú có để 10 ngàn tiền ăn sáng của anh trên đầu tủ đó.
(Tú bước tới lấy tiền trên đầu tủ, cầm 10 ngàn trên tay ngần ngừ một chút rồi đưa tay kéo hộc tủ tiền. Thấy chỉ có ít đồng tiền lẻ, Tú quay qua hỏi Vân)
- TÚ: - Bán từ sáng tới giờ mà chỉ có mấy ngàn vậy Vân?
- VÂN: - Em hổng biết, chú mới sai em đi chợ về.
- TÚ: - Ba anh có nói đi chừng nào về không?
- VÂN: - Dạ hổng có!
- TÚ: - (kéo ghế ngồi xuống, lẩm bẩm một mình) – Chết rồi! Làm sao bây giờ!
- VÂN: - Anh Tú nói gì?
- TÚ: - Không có gì đâu! À! Mà có. Em có tiền không vậy?
- VÂN: - Em đâu có tiền! Mà anh cần tiền làm gì?
- TÚ: - Bữa nay sinh nhật nhỏ bạn học chung lớp, tối qua anh quên xin tiền. Bây giờ thì lấy gì mua quà đây, không đến nó giận chết luôn…
- VÂN: - Mua quà bao nhiêu mới đủ anh Tú? Em có để dành tiền chú cho ăn sáng được mấy chục ngàn… tính để mua tập vở cho mấy đứa nhỏ khi tựu trường…
- TÚ: - Mấy chục hả? Em lấy cho anh mượn hết đi, trưa về anh xin tiền má trả lại cho em. Rồi anh sẽ nói với má cho em thêm nữa…
- VÂN: - Anh Tú đợi em một chút. – (Vân quay vào trong, trở ra cầm trên tay mớ tiền lẻ đưa cho Tú).
- TÚ: - (để mớ tiền trên bàn đếm cẩn thận) – Được 40 ngàn, cộng với 10 ngàn của anh nửa là 50. Được rồi, anh lấy thêm 10 ngàn tiền trong hộc tủ. Lát nữa chú về em nói lại giùm anh nghe Vân. – (Tú bước tới mở hộc tủ lấy thêm tiền rồi bước ra. Hết cảnh I)

CẢNH II

Cảnh một công viên khá vắng vẻ, Hùng đang ngồi trên một băng đá, dáng vẻ nóng ruột, chờ đợi. Tú đi tới.

- HÙNG: - Mầy hẹn hò cái kiểu gì mà giờ nầy mới tới? Vã muốn chết rồi đây nè. – (Hùng hắt xì liên tục 6,7 cái) – Tiền đâu?
- TÚ: - Bữa nay kẹt rồi, tao mượn nhỏ em được có mấy chục. Mầy có bao nhiêu?
- HÙNG: - Hôm qua thiếu tiền, phải gởi lại nó cái đồng hồ rồi. Bữa nay thiếu nữa dễ gì nó chịu. Đâu, mầy có bao nhiêu đưa tao coi.
- TÚ: - 60 ngàn.
- HÙNG: - Tao có 40 nữa là 100. Đủ lấy một con nhưng không có tiền mua cung kiếm, nước cất… rồi thuốc hút, cà phê nữa…
- TÚ: - Xin nó lại vài ngàn hổng được sao. Tao cũng vã rồi đây nè. (Tú cũng hắt xì hơi liên tục).
- HÙNG: - Được cho mầy mừng! Cái đám bán ma túy nầy một đồng cũng hổng lỏi. Mầy ở đây đợi, tao đi lấy hàng.
(Hùng đi ra ngoài, Tú ngồi đợi trên băng đá, thỉnh thoảng hắt xì, rồi lại ngáp. Hùng hấp tấp bước vào)
- TÚ: - Có hông! Sao mầy đi lâu vậy?
- HÙNG: - Được, nhưng nó chưởi thề um sùm. Nó nói hôm qua mình hẹn bữa nay trả tiền cũ, đã không có còn xin lại vài ngàn… Tú! Mầy đưa cái lưỡi lam cho tao…
- TÚ: - Tao quên đem theo rồi.
- HÙNG: - Hôm trước đổ hết một lần rồi mầy không nhớ hả? Thứ hàng vô ống hút nầy không có lưỡi lam là vô phương… đâu mầy kiếm dưới đất coi có thằng nào liệng đâu đó không.
(Vừa nói Hùng vừa móc trong túi quần ra một ống tiêm nhựa còn trong bọc. Nó xé bọc lấy chiếc ống tiêm ra, tay kia cầm ống nước cất đưa lên miệng cắn một đầu, rồi ghim đầu còn lại xuống đất)
- TÚ: - Hên quá! Có cái lưỡi lam nè Hùng.
- HÙNG: - Đưa đây. – (Hùng dùng miệng cắn đuôi của chiếc ống tiêm kéo mạnh ra. Tay trái vừa cầm ống tiêm, vừa cầm cục hàng đưa lên dùng lưỡi lam cắt ngang, sau đó trút tất cả vào ống tiêm rồi gắn pít-tông vào, với tay lấy ống nước cất đang ghim dưới đất rút nước. Nó lắc đều chiếc ống tiêm rồi đưa lên mắt nhìn, miệng nói) – Một xê tư, thằng bảy mắc…
- TÚ: - Cái ống của tao đâu?
- HÙNG: - Tao mua có một cái thôi. Hai thằng chơi chung…
- TÚ: - Mầy nói cái gì? Hai thằng chơi chung làm sao được… rồi bệnh hoạn tùm lum mầy không biết sao…
- HÙNG: - Mầy đúng là đồ con non, hổng tiền mà còn đòi hỏi. Mầy biết khi tao hỏi xin nó lại vài ngàn, nó đưa bao nhiêu không? Một ngàn… mua được mấy bộ. Ở chổ khác một bộ cung kiếm người ta bán năm trăm, còn tiệm thuốc tây đầu đường nầy nó biết mình chơi nên hét một ngàn, may là trong túi tao còn năm trăm mới có ống nước cất… Mà bây giờ có đủ tiền tao cũng chỉ mua một bộ mà thôi…
- TÚ: - Sao đủ tiền mà cũng mua một bộ?
- HÙNG: - Một bộ hai thằng chơi chung đỡ hao thuốc. Mầy biết không hôm trước ở công viên tao gặp một thằng bụi đời, nó lượm mấy cái ống người ta chơi rồi, máu mủ tùm lum gom lại, sau đó nó se gòn thật nhỏ đút vô đầu ống cho thấm số thuốc lẩn với máu còn kẹt lại trong đầu ống. Nó rút lại vào một ống khác rồi chơi, cũng đỡ vã. Bây giờ nếu tao với mầy chơi hai ống, thì số thuốc đầu ống bỏ đi sẽ gấp đôi… đã không có tiền thì ráng chịu vậy…
- TÚ: - Nhưng như vậy khó chơi lắm, mà dễ lây bệnh nữa…
- HÙNG: - Khó cái gì! Một xế tư tất cả, bây giờ tao chích trước, khi đâm vô gân rồi tao sẽ không báo máu mà bơm luôn, được bảy mắc tao sẽ dừng lại chừa phần cho mầy… Tụi nó bây giờ chơi chung cả ba bốn thằng luôn chớ hai đứa mà nhằm nhò gì…
- TÚ: - Nhưng tao sợ…
- HÙNG: - Mầy sợ HIV chớ gì? Con vi rút đó vật mầy mạnh hơn khi ghiền mà thiếu thuốc không? Kệ! Tao cứ chơi xong phần của tao, phần còn lại mầy muốn làm gì thì làm… đừng có kêu tao chích nghen. Mầy canh chèo giùm đi.
(Nói xong, Hùng ngồi xuống phía sau băng đá tự chích cho mình. Sau đó đưa ống chích cho Tú, gương mặt Hùng đờ đẫn một lúc rồi móc túi lấy điếu thuốc châm lửa hút. Tú cầm ống chích ngần ngừ, đưa sát lên mắt nhìn như muốn xem có gì lạ trong đó không, hắt xì hơi liên tục)
- TÚ: - Hùng ơi! Tao sợ…
- HÙNG: - Vã muốn chết rồi mà còn sợ… sợ cái gì! Đưa đây tao đâm giùm cho…
(Tú chần chừ không muốn đưa ống chích cho Hùng, nhưng sau đó lại ngáp liền hai, ba cái. Nó chắc lưỡi đưa ống chích cho Hùng rồi ngồi xuống chìa tay ra. Đúng lúc đó công an, dân phòng ập tới, Hùng vẫn chưa kịp chích cho Tú, vất ống chích định bỏ chạy nhưng bị bắt lại. Tú sợ quá bật khóc)
- CÔNG AN: - (nói với hai người dân phòng) – Hai anh gom mớ tang vật nầy rồi giải tất cả về phường.

(Hết cảnh II)

CẢNH III

Một tháng sau tại phòng thăm nuôi của Trung tâm cai nghiện, bác Năm và hai vợ chồng Tám Tân tay xách đồ đạc lỉnh kỉnh bước vào. Góc phòng có một bàn làm việc, phía bên phải có đặt chiếc kệ dài.

- BÁC NĂM: - Hai vợ chồng bây để đồ đạc xuống đó ngồi nghỉ. Tao chạy đi kiếm thằng cháu làm bác sĩ ở đây hỏi thăm coi sức khoẻ thằng Tú thế nào rồi tính. – (nói xong bác Năm bước ra ngoài).
- VỢ 8 TÂN: - Ông à! Hóa ra vụ tiền bạc đều do một tay thằng Tú… vậy mà tôi nghi ngờ con Vân, thiệt tội cho nó quá…
- TÁM TÂN: - Thôi! Bỏ qua chuyện đó đi… tôi đang điên đầu vì chuyện thằng Tú đây nè.
- VỢ 8 TÂN: - Không biết kiếp trước tôi làm gì nên tội mà hết chồng rồi lại tới con vướng vào cái nghiệp nầy…
- TÁM TÂN: - Bà… - (định lớn tiếng nhưng dịu lại) – ai mà muốn như vậy đâu.
(Bác Năm và bác sĩ Tiến bước vào)
- BÁC NĂM: - Đây, giới thiệu với hai vợ chồng bây. Thằng Tiến, cháu tao, nó là bác sĩ điều trị tại trung tâm nầy. Còn đây là chú thiếm Tám, ba má thằng Tú, được đưa vào trung tâm hồi đầu tháng đó.
- BS TIẾN: - Dạ! Xin chào chú thiếm.
- VỢ 8 TÂN: - (hấp tấp) – Bác sĩ! Bác sĩ… thằng Tú con tui sao rồi bác sĩ. Nó có bệnh hoạn gì không bác sĩ… nó ăn uống được không bác sĩ?
- TÁM TÂN: - Bà nầy thiệt tình! Hỏi gì mà như ăn cướp vậy? Ai trả lời cho kịp…
- BS TIẾN: - Dạ! Không sao. Em Tú đã khỏe rồi chú thiếm, do thời gian em sử dụng ma tuý chỉ mới 1, 2 tháng nên việc cắt cơn cũng như phục hồi thể lực rất nhanh. Không khó khăn như những người nghiện nặng, có điều trung tâm vẫn phải giữ em ở lại ít nhất là 6 tháng để giáo dục ý thức đồng thời cách ly em với đám bạn xấu.
- TÁM TÂN: - Được! Được… bao lâu cũng được, miễn là nó đừng tái diễn lại chuyện nầy.
- VỢ 8 TÂN: - Ông nói bao lâu cũng được là sao? Bộ ông không nhớ con hả? Còn chuyện học hành thì sao!?
- TÁM TÂN: - Tui nói bao lâu cũng được là vì khi vào đây rồi mọi chuyện không phải do mình quyết định nữa…
- BÁC NĂM: - Nó nói phải đó vợ thằng Tám, trong thời gian tập trung cai nghiện, học viên sẽ được các bác sĩ, cán bộ thường xuyên chăm sóc, theo dõi. Khi nào người ta thấy được thì cho nó về thôi… Tao nói vậy phải hông Tiến?
- BS TIẾN: - Dạ! Chú nói cũng phải, thời gian ở trung tâm lâu hay mau Nhà nước đều có quy định tùy theo từng mức độ vi phạm của mỗi người. Có chuyện nầy con xin phép được hỏi chú – (quay qua nói với Tám Tân) – xin chú tha lỗi…
- TÁM TÂN: - Có chuyện gì bác sĩ cứ hỏi, lỗi phải cái gì!
- BS TIẾN: - Có phải trước kia chú cũng từng có thời gian sử dụng ma túy không ạ?
- BÁC NĂM: - Cái đó thì có… nhưng nó bỏ lâu lắm rồi mà Tiến! Điều nầy cả khu phố đều có thể làm chứng cho nó được. Thằng Tám là người nhiệt tình và có công nhất trong việc bài trừ tệ nạn ma túy tại địa phương đó con.
- BS TIẾN: Dạ! Con đâu có nói chú Tám sai phạm điều gì. Cái mà con muốn nói là vấn đề khác kia…
- VỢ 8 TÂN: - Vấn đề gì vậy bác sĩ?
- BS TIẾN: - Trong quá trình gần gũi điều trị cho em Tú, có lần cháu hỏi cái gì đã dẫn em đến với ma túy… thì em trả lời…
- VỢ 8 TÂN: - Nó trả lời sao bác sĩ?
- BS TIẾN: - Em nói hồi nhỏ đâu khoảng 8, 9 tuổi gì đó, có lần em trông thấy chú Tám mang thuốc về nhà chích. Hình ảnh đó cứ lẩn quất trong ký ức em, lớn lên khi giao du với một số bạn xấu, bị nói khích và cả dụ dỗ, hình ảnh đó lại hiện về. Và em đã nghĩ ba mình đã từng sử dụng, thì nay mình thử một lần chắc không sao. Rồi sau đó là lần thứ hai, thứ ba… cho đến khi lệ thuộc vào ma túy.
- VỢ 8 TÂN: - Trời ơi! Ông hại con rồi. – (bật khóc)
- TÁM TÂN: - Tôi đã đoạn tuyệt với thứ chết người gần mười năm trời mà sao nó còn đeo đẵng theo gia đình tôi hoài vầy nè!
- BS TIẾN: - Có thể nói đối với gia đình, ma túy như một vết thương trí mạng. Vết thương ấy đôi khi đã được chữa khỏi nhưng hệ lụy của nó lại mang mầm móng hoại tử ăn luồng sâu trong từng ngõ ngách của nền tảng gia đình xã hội. Và một khi chúng ta lơ là, mất cảnh giác nó sẽ bộc phát… nhưng đối với em Tú là vẫn còn may mắn rất lớn…
- VỢ 8 TÂN: - May mắn cái gì bác sĩ ? Tôi đang rầu thúi ruột đây nè!
- BS TIẾN: - Cháu không có ý gì khi nói như thế đâu. Tú may mắn là khi bị bắt vẫn chưa kịp chích mũi thuốc cuối cùng ấy, vì em Hùng bạn Tú đã bị nhiễm HIV, mà hôm ấy hai em định sử dụng chung một kim tiêm. Nếu lực lượng bài trừ ma túy đến chậm một chút e là em Tú cũng đã lây bệnh.
- VỢ 8 TÂN: - Trời ơi! Lạy trời, lạy phật… - (quỳ xuống vái lia lịa) – trời còn thương con.
- BS TIẾN: - Hiện nay tình hình lây nhiễm HIV trong giới trẻ, nhất là giới tiêm chích ma túy đã đến mức báo động. Tình trạng sử dụng chung kim tiêm đã khiến chuyện lây nhiễm ngày càng rộng hơn và ảnh hưởng cả đến những đối tượng khác. Nhà nước đã tốn biết bao công sức, tiền của để tuyên truyền, cảnh báo nhưng xem ra hiệu quả chẳng là bao. Đối với mấy ông ghiền, một khi thiếu thuốc thì bất kể… có sợ gì chết chóc…
- BÁC NĂM: - Còn thằng Hùng thì sao rồi hả Tiến?
- TÁM TÂN: - Phải rồi, thằng Hùng có bị gì không bác sĩ?
- BS TIẾN: - Dạ! Em Hùng cũng đang ở tại trung tâm. Sau khi xét nghiệm máu có kết quả dương tính, Hùng được điều trị tại khu vực riêng biệt dành cho người nhiễm HIV. Chúng cháu đã mời gia đình Hùng đến để tư vấn cũng như hướng dẫn trong việc chăm sóc người nhiễm bệnh. Hy vọng sau nầy khi trở về nhà Hùng sẽ có cuộc sống tốt hơn…
- VỢ 8 TÂN: - Bác sĩ! Tui muốn gặp thằng Tú được không bác sĩ?
- BS TIẾN: - Dạ được chớ, để cháu vào gọi em Tú ra gặp gia đình. Sau nầy khi em Tú về nhà, xin chú thiếm để mắt quan tâm đến em nhiều hơn, để đừng xảy ra chuyện đáng tiếc nào nữa.
- TÁM TÂN: - Xin bác sĩ yên tâm, tôi hứa sẽ không để con mình tái diễn trò chơi chết người nầy một lần nữa đâu.
(Bác sĩ Tiến đi vào, một lúc sau Tú đi ra)
- TÚ: - Ba má! – (chạy lại ôm lấy má nó rồi bật khóc)
- BÁC NĂM: - Con trai mà khóc cái gì bây! Ê! Tám hình như nó mập hơn hồi ở nhà hả mậy?
- TÁM TÂN: - (giọng nghèn nghẹn) – Dạ! Mập hơn.

MÀN HẠ

TÂM TÌNH CÙNG ANH BÁN CHIẾU NGÀY XƯA


VỌNG CỔ

TÂM TÌNH VỚI ANH BÁN CHIẾU
NGÀY XƯA

oOo

* Kính tặng soạn giả VIỄN CHÂU

* NGY UYÊN

Nói lối:

Chiều châu thổ khề khà ly rượu đế
Chéo ngoẩy đùi nghe tiếng hát Út Trà Ôn
Giọng kể lể “Tình anh bán chiếu”
Nỗi đắng cay của kiếp thương hồ

VỌNG CỔ

I. Người con gái ấy lên xe hoa theo chồng về nơi xứ lạ, để lại trên bến sông một gã si… tình. Ông đứng ôm đôi chiếu bông nhìn dòng nước trôi mà nghe quặn thắt tim mình. Bảy ngã sông như bảy dòng định mệnh, người ấy đi rồi ông biết về đâu? Đời thương hồ sông nước mênh mông, ngày xuôi ngược, đêm căng mắt thức chờ con nước; tiếng gõ song lang dứt câu trổi nhịp, dội vào lòng ông như khơi dòng nước mắt.

II. Tôi với ông cách nhau hàng bao thế hệ, chỉ giống nhau trái tim yêu và nỗi dại khờ. Ông thả ghe trên sông mà chẳng có bến đợi bến chờ, còn tôi đường đời dong ruổi cũng một mình gặm nhấm đơn côi. Thôi tiếc làm chi đôi chiếu bông dệt cho người năm trước, nàng đã theo chồng còn gì nữa mà mong. Tôi với ông hãy chia nhau mỗi người một chiếc, đêm gối đầu chắc hẳn sẽ nằm mơ.

Ngâm :

Hò… ơi!
Lên bờ dạ lại nhớ sông
Thương hồ một mái chèo rong bến đời
Đêm nay trăng sáng lên khơi
Có người thương khách bời bời… nhớ ai!
(Quân Tấn)

VỌNG CỔ

V. Ông đừng trách chi chuyện người ấy làm ngơ, không biết ông nâng niu từng cọng lác, thời bây giờ người ta ưa chăn nhung, nệm gấm công của ông đã đổ sông đổ biển lâu… rồi. Xin ông hãy cố quên đi mà vui sống với đời. Tiếng ai đó ru con một chiều trên bến vắng, ông có chạnh lòng nhớ đến người xưa? Cả hai chúng ta như dã tràng xe cát, nhọc nhằn cả đời mà có được gì đâu. Người tôi yêu, chê tay tôi lọng cọng, dệt chẳng nên thân chiếc chiếu sang giàu.

VI. Ông may mắn hơn tôi tuy yêu mà vẫn chưa dám tỏ tình. Còn tôi lại được yêu quá nhiều nên sự mất mát biết lấy gì bù đắp. Thôi ông hãy lui ghe xuôi dòng theo bảy ngã, bao ưu phiền hãy gởi hết vào con nước trôi xuôi. Đời thương hồ vốn ngang dọc nhiều nơi, chuyện bến bờ xin ông đừng coi nặng. Dẫu trăm năm hay nhiều năm sau nữa, người ta sẽ không quên anh chàng bán chiếu si… tình.

Ông mất nàng mà chẳng biết nàng đâu.
Tôi thì biết rất rõ về người ta vậy mà cuối cùng vẫn mất.
Thử hỏi ông với tôi ai là người hạnh phúc.
Có lẽ điều nầy ông hiểu hơn tôi.

BÀI HÀNH TUỔI BỐN MƯƠI



Bốn mươi năm ta làm người
Cười đau cũng dăm ba bận
Đã từng xuống ngựa – lên xe
Hèn sang xem ra tường tận

Cũng có một người con gái
Người đời gọi là vợ ta
Theo nhau khi còn áo rách
Bao năm chưa kín đôi tà

Cũng có một thằng con nhỏ
Tạm đủ gọi là gia đình
Muối dưa lùa ngày ba bữa
Sá gì ba chuyện linh tinh

Vợ đôi khi buồn ngồi nhắc
Ngày xưa - giá mà ngày xưa
Ta biết rằng nàng giận lắm
Tơ ông lảo ấy cột bừa!

Con ta xem chừng thực tế
Bao giờ được như nhà người?
Biết nói thế nào con hiểu
Thơ cha vời vợi mây trời

Bốn mươi năm – Hừ! Tóc bạc
Chọn chi thơ phú làm nghề
Mang cả tâm hồn đi bán
Lắc đầu thiên hạ khen chê

Người xưa nói rằng: “Bất hoặc...”
Ta vốn tôn sùng cổ nhân
Nên không nghi ngờ gì nữa
Bon chen ắt cũng bằng thừa

Thôi đành bốn mươi năm chẳn
Dùng dằng thơ phú lôi thôi
Kiếp sau trời cho chọn lựa
Chắc cũng y như kiếp rồi.

CÀ MAU

Nhà thơ Minh Nguyệt tại Hòn Đá Bạc

Tại chòi canh Lâm trường U Minh Hạ



Nguyễn Trung Nguyên tại Hòn Đá Bạc

Nhà văn Lâm Thị Thanh Hà tại Hòn Đá Bạc



Thứ Năm, 4 tháng 12, 2008

CHÚT LÃNG MẠN ĐỒNG BẰNG

Ảnh Trương Công Khả

VÙNG SÂU QUÊ TÔI



Quê tôi – báo chí gọi “vùng sâu”
Độ mặn của nước – tính bằng lớp lớp váng phèn
bám vào da cha, da mẹ
Tóc ông nội bạc - lẫn cả màu vàng của nắng
Lưng bà còng – cong như con ốc lác mùa khô

Ngày cha sinh - ông nấu nước chụm rơm
Bà đẻ rớt trên đồng mùa giáp hạt
Bông súng, cù nèo cũng qua ngày đói rét
Hạt gạo dầu hơi – nữa trắng nữa vàng không đủ mà ăn

Ông hay tự trào: “Tao dốt đặc cán mai!
Bây ráng học để làm người nhân nghĩa”
Vậy mà Lục Vân Tiên – không hiểu sao ông chẳng quên một chữ
Cái nghĩa “bất bằng…” bám vào ông như rể đước, rể còng

Chúng tôi lớn lên nghe quen vần trắc, vần bằng
Đã thuộc tự bao giờ câu thơ lục bát
Mẹ bảo chúng tôi nhớ câu: “Nhân sinh tự cổ…”
Cha dạy chúng tôi: “Cái cò lặn lội bờ sông…”

Vùng sâu quê tôi – hạt lúa lớn lên cũng chẳng dễ dàng
Mùa khô nức nẻ – lũ cuối nguồn đầy mãi
Thế kỷ mới – vẫn còn chuyện lo cứu đói
Chỉ có chữ tình – mái lá nào cũng thật dư thừa

Tôi đi học xa – Thiếm Bảy chèo xuồng tiển đưa
Bác Năm dúi vào bọc đòn bánh tét
“Ráng học nghe con! Thành tài về giúp quê – giúp nứoc”
Câu dặn dò chung của cả xóm nghèo

Thành thị xa cứ nhớ mãi vùng sâu
Đêm thắt thỏm tiếng ễnh ương: “Quềnh quệch…”
Mẹ lên thăm kể: “Quê mình có điện…”
Tôi nghe mà nước mắt rưng rưng.

CHÚT LÃNG MẠN ĐỒNG BẰNG

Ảnh Trương Công Khả

NGHE ÚT TRÀ ÔN CA “TÌNH ANH BÁN CHIẾU”


Chiều châu thổ khề khà ly đế
Chéo ngoẩy đùi nghe Út Trà Ôn
Giọng kể lể “ Tình anh bán chiếu”
Nỏi đắng cay của kiếp thương hồ

Muồi biết bao nhiêu chổ dứt câu xề
Ngày xuôi ngược đêm thức cùng sông nước
Đôi chiếu bông dệt cho người năm trước
Trở lại đây em đã theo chồng

Ngã nào đâu em vội vả xuôi dòng?
Sông bảy ngã ông cách chi tìm được!
Đôi chiếu ấy hãy tặng tôi một chiếc
Đêm gối đầu chắc sẽ nằm mơ

Ông đừng trách chi chuyện người ấy làm ngơ
Không biết ông nâng niu từng cọng lác
Thời bây giờ người ta nằm nệm mút
Công của ông là công cốc rỏ ràng!

Tôi với ông đều là kiếp dã tràng
Cố xe cát xây lâu đài ảo mộng
Người tôi yêu chê tay tôi lọng cọng
Dệt chẳng nên thân chiếc chiếu sang giàu

Ông mất nàng mà chẳng biết nàng đâu
Tôi biết rõ mà cuối cùng vẫn mất

Vậy ông với tôi ai là người hạnh phúc !?

DỖI HỜN CÙNG BIỂN


MỘT MIẾNG CƠM ĐỜI


Có nằm mơ hay giàu tưởng tượng cỡ mấy ông nhà văn gã cũng không thể ngờ có ngày mình gặp lại ông ta trong căn phòng tạm giam chật hẹp này. Hơn hai tháng trời tới lui, lui tới dù muốn hay không gã cũng thuộc lòng cái “thời khóa biểu” của một kẻ chờ ngày đi gặp mấy ông tòa. Ngoài hai lần sáng, chiều cánh cửa sắt nặng chịch rít lên ken két khi phòng lao động đưa cơm, còn lại y như rằng hễ nghe tiếng chìa khóa rủng rẻng là có người lên gặp cán bộ làm việc hoặc tân binh nhập phòng.
Trưa nay cũng vậy, cán bộ quản giáo chưa kịp kéo cánh cửa sắt thì bảy cái đầu râu ria nham nhỡ đã sà đến chờ đợi. – “Tuấn, nhận tân binh nghe” – cán bộ Tư nói ngắn gọn rồi khép cửa, lấy đi luôn mớ ánh nắng vàng vọt vừa ùa vào cái nơi mà ông mặt trời ít khi có dịp ghé chơi.
Căn phòng luôn thiếu ánh sáng, tối nhờ nhờ nhưng gã nhận ra ngay ông ta dù đã khá lâu rồi không gặp. Trong khi sáu cặp mắt kia đang ngó như trợn trừng cái người mà cán bộ vừa gọi là tân binh ấy, thì đầu óc hắn cũng rối tung lên chẳng biết phải làm thế nào, nhận người quen ư? Không! Vờ không biết! Cũng chẳng ổn vì trong khoảng không gian chật hẹp này ngày mai, ngày mốt làm sao không đụng mặt; cũng may là hơn hai tháng rồi chưa cạo râu, hớt tóc nên khuôn mặt chắc khó coi lắm. Kệ! tới đâu hay tới đó. Còn Tuấn – trưởng phòng (gọi như vậy cho oai chứ thật ra chỉ là người ở đây lâu nhất được cán bộ phân công vậy thôi) – cũng quên luôn cái thủ tục đầu tiên khi thấy “ông” tân binh gì mà sang quá, tướng tá béo tốt phương phi, áo sơ mi trắng dài tay cài măng sét, còn bỏ vào quần nữa mới ghê chứ. Đồ đạc ông ta xách theo không phải mấy cái bọc hai quay hoặc túi đệm dúm dó như gã vẫn thường thấy mà là hai cái túi du lịch đắt tiền. Ông này mà gặp ngoài đời chắc hổng dám đi gần nữa chớ ở đó mà làm việc. Nói thì nói vậy, chớ với một thằng đã từng vào tù ra tội, ăn cơm trại nhiều hơn cơm đời như Tuấn thì qua một chút bối rối nó đã lấy lại bình tỉnh hất hàm:
- Đứng sát vào tường, cởi quần áo ra.
Ông ta lập cập dựa lưng vào tường, run run mở từng chiếc nút một và khi chiếc quần dài được tuột ra hẳn khỏi hai bàn chân thì bảy thằng “ma cũ” không ai bảo ai buột miệng cười sặc sặc. Tụi nó tức cười vì thấy cái thân hình béo trục, béo tròn, trắng như mỡ heo ấy xuất hiện trong căn phòng tạm giam này sao mà khôi hài quá, cái chỗ này lẽ ra chỉ dành cho bọn nó, cái đám cùng đinh lăn lóc bụi đời, xì ke ma túy kìa.
- Tội gì? Nói nghe coi! – Tuấn hỏi tiếp.
- Dạ! dạ làm giám đốc…
- Làm giám đốc sao bị bắt?
- Dạ! tại thiếu trách nhiệm…
- Ngộ quá hén… - Thằng Tuấn buột miệng nói tiếp: - Chuyện đó để cán bộ lo. Còn bây giờ ông vô đây thì phải chấp hành nội qui của phòng này. Ê Tám! Khám đồ coi có gì không mậy.
Thằng Tám vớ hai cái túi du lịch mở ra, hai bộ bi-ja-ma trắng, quần đùi, áo thun cũng toàn trắng; rồi mấy hộp bánh tây, bàn chải, kem đánh răng, hai bộ đồ âu phục mới cứng… Nhìn sơ qua thằng Tuấn biết ngay tay này mới ở tù lần đầu, nó lẩm bẩm: “Giống đi du lịch quá hén!”.
Trong khi thằng Tuấn “lên lớp”, sắp xếp chổ ngủ cho ông ta thì gã lui vào góc phòng thừ người ra ngẫm nghĩ. Chỉ hơn năm trước chớ mấy, lúc ấy hàng ngày gã phải chực chờ mở cổng cho xe con đưa ông ta vào cơ quan làm việc. Chỉ là bảo vệ quèn nên gã cũng chẳng thắc mắc làm gì khi thấy lúc nào cũng kè kè bên ông ta một cô thơ ký xinh đẹp. Nghe đâu ông đã li dị bà vợ và bỏ luôn mấy đứa con làm ruộng ở quê từ khi chễm chệ trên chiếc ghế giám đốc. Đã từng có quá trình tham gia kháng chiến, cũng nằm hầm, cũng chạy càn, cũng chém vè búa xua… thì việc tưởng thưởng công lao cũng xứng đáng thôi. Cái vụ vợ con biết đâu lỗi không phải của ông ta thì sao?! Gã cứ nghĩ lan man như vậy mà quên bẵng đi chuyện của chính bản thân mình.
Gốc quê, cha gã tham gia du kích, bị bọn giặc ruồng bắn chết ở đầu vàm khi gã vừa lên hai tuổi, lúc ấy đâu vào khoảng đầu những năm bảy mươi của thế kỷ trước. Mẹ gã vừa đào hầm nuôi chứa bộ đội vừa lo cho hai chị em gã ăn học bữa đực, bữa cái mà cũng lớn lên. Sau ngày giải phóng gã “canh me” vừa đúng 18 tuổi là xung phong đi bộ đội, rồi ra quân, rồi… thất nghiệp dài dài. Nhớ chuyện cũ, gã đâm lẩn thẩn tự hỏi: hồi đó con vợ mình sao ngu quá hén ta! Thương ai hổng thương đi lấy cái thằng thất nghiệp. Một dạo có đoàn cựu chiến binh về thăm quê, quen biết kiểu gì gã sức mấy mà biết nhưng sau đó một thời gian gã được vào làm bảo vệ ở cơ quan của ông “tân binh” này. Hơn năm trời làm cái việc đóng mở cổng, gã cũng dời luôn con vợ và cái bụng bầu từ vùng ven thành phố vào nhà trọ làm dân thị thành khơi khơi.
Suốt trong thời gian hết sáng rồi chiều chỉ làm công việc kéo cái bản lề thiếu nhớt rỉ sét ken két nghe nhức cả răng ấy chưa bao giờ gã cảm thấy mình ngon lành, ngoại trừ một lần. Đâu hơn 8 giờ ngoài rồi, cánh cửa lớn đã đóng cẩn thận, cửa nhỏ gần chổ gã ngồi mở hụ hợ cho có lệ khỏi mất công đứng lên, ngồi xuống khi mấy con mụ căn-tin ra vào liền liền. Cô thơ ký riêng của giám đốc đêm qua thức khuya hay sao mà ngủ trễ hộc tốc chạy xe như điên quẹo vào cơ quan đụng ngay con nhỏ bán báo dạo, hất tung chồng báo trên tay nó rớt xuống vũng nước đêm qua mưa lớn đọng lại. Con nhỏ bị đụng không đau gì mấy nhưng cả chồng báo rơi xuống ướt nhẹp coi như tiêu mạng. Không dừng lại xin lỗi hay xem xét thiệt hơn gì, cô ta điềm nhiên định lách xe vào cổng như chẳng có chuyện gì xảy ra. Nhưng cho dù cô ta có lẹ làng cỡ nào cũng không bằng một người đã từng mặc áo lính, gã kéo cánh cửa lại không cho cô ta vào và nói: - “Cô quay lại xem con nhỏ thế nào rồi hãy vào”. - “Cái gì? Anh dám…”. - “Cô đụng người ta rớt cả chồng báo xuống nước không thấy à, bồi thường cho con nhỏ rồi muốn vô thì vô…”. Nghe ồn ào nhiều người bu lại xem, cô thơ ký xinh đẹp “chịu phép” phải mua mắc mấy tờ báo ướt ấy chẳng biết có nói gì với ông ta hay không mà vài ngày sau người phụ trách tổ chức đã gặp hắn, khuyên nên làm đơn xin nghỉ việc để được hưởng 3 tháng lương, còn hơn bị buộc thôi việc một cắc không có. Biết mình chọc phải ổ kiến lửa, gã lẵng lặng cầm mớ tiền ra đi không hẹn ngày trở lại.
Vợ sắp sinh con, thất nghiệp, gã đã phải làm đủ thứ công việc không tên với mong muốn trụ lại được ở thành phố này dù thâm tâm gã cũng hiểu chuyện quy hồi cố thổ cũng chỉ nay mai. Bữa nọ buồn quá gã ngồi nhâm nhi ly rượu vỉa hè không ngờ gặp lại thằng bạn từ thời còn cầm súng trên rừng. Nghe gã kể khổ, hắn ta hào phóng buông một câu chưởi thề rồi nói: “Tao cho mầy mượn chiếc xe mỗi ngày đảo lòng vòng kiếm tiền nuôi vợ đẻ, đây cạt-vẹt mầy giữ luôn có gì thì đưa ra, khỏi lo gì cả khi nào khá thì trả lại tao…”. Đơn giản như đang giỡn. Thằng bạn để lại chiếc xe rồi đi, quên luôn chuyện cho gã biết địa chỉ. Con vợ gã mừng như bắt được vàng, tíu tít lo sắm đồ lề cho gã gia nhập đội quân xe ôm. Mọi chuyện êm ấm đâu cũng vài tháng, vợ gã mẹ tròn con vuông. Ngày gã có đứa con đầu lòng, mẹ gã từ dưới quê lên thăm mới biết chuyện gã mất việc, bà ngồi bần thần coi bộ suy nghĩ lung lắm, gương mặt rười rượi buồn buồn mà chẳng nói gì.
Bữa đó, không biết có phải cái ngày định mệnh hay không? Mà người khách đi xe ôm kéo luôn gã vô đồn công an rồi hô hoán “ăn cắp xe”. Gã chưa kịp hiểu ra thì mấy ông công an đã thảy cho gã cái lệnh tạm giam. Hóa ra, chiếc xe mà thằng bạn quý hóa cho mượn là của ăn cắp, còn cái cạt-vẹt cũng là đồ giả nốt. Đúng là cái thằng trời đánh, bây giờ biết kiếm nó ở đâu khi một dòng địa chỉ cũng mịt mờ sương khói.


*
* *

Có thể hiểu thế này, trại tạm giam giống như một trạm trung chuyển trong thời gian người phạm pháp chờ kết luận điều tra và ra tòa nhận án. Sau khi có mức án cụ thể sẽ được chuyển đi thụ hình ở những nơi khác, rộng rãi, dễ chịu hơn cái nơi chật hẹp này (tất nhiên là không bằng ngoài đời rồi). Riêng ở một số trường hợp như: chưa bắt được đồng phạm, chưa đủ chứng cứ thì người bị tạm giam tiếp tục nhận gia hạn tạm giam chẳng biết đến khi nào như vụ việc của Tuấn trưởng phòng và gã.
Ngày mới vào phòng này, gã cũng bần thần bẩn thẩn y hệt như ông ta bây giờ. Trước đây, đã có lần gã nghe kể về chuyện ma cũ ăn hiếp ma mới trong các trại giam, thậm chí có người còn bị đánh đến chết, cho nên khi bước vào phòng tạm giam nầy gã luôn hồi hộp không biết số phận mình sẽ ra sao. Vậy rồi, đã chẳng có chuyện gì xảy ra. Sau nầy, khi đã ở đây một thời gian thì gã nhận ra rằng thật ra những người tù nầy chưa hẳn là đã quá tệ hại. Ngoài xã hội mỗi người một hoàn cảnh sống khác nhau và con đường đưa họ vào đây cũng khác. Nhưng khi đã hiểu rõ họ hơn, gã nhận ra một điều: thật ra con người ai cũng muốn làm được những điều tốt đẹp, cũng muốn cuộc sống của mình hạnh phúc, chỉ vì một hoàn cảnh nào đó đưa đẩy mà họ phạm tội. Thế nhưng, liệu sau cuộc hành trình tù tội, khi rời khỏi nơi đây trước những thử thách muôn hình vạn trạng của cuộc đời, làm sao giữ được mình là điều khó khăn vô cùng. Đôi khi gã nghĩ giá như ngoài đời họ cũng chia sẻ cho nhau như trong tù, cũng tìm đủ mọi cách để được sống dễ chịu hơn như khi còn ở đây, hẳn là sẽ có rất ít người phải quay trở lại căn phòng mờ tối nầy.
Người đời thường nói “Đi một ngày đàng học một sàng khôn”. Còn gã thì chỉ quanh quẩn trong căn phòng chật hẹp nầy cũng học được khối cái. Chế độ của phạm nhân ở đây mỗi ngày chỉ được hai “bo” cơm (thau mủ nhỏ), nên buổi tối nếu có, họ thường ăn thêm mì gói. Lúc nhập phòng gã thấy thức ăn của mình bị gom vào một góc, muốn phản ứng mà không dám nhưng sau đó gã hiểu rằng ở phòng nầy mọi cái đều được chia sẻ với nhau, kể cả người không có thăm nuôi. Tuy vậy, điều làm gã ngạc nhiên nhất là không hiểu cách nào họ có thể nấu nước sôi vì trong phòng không hề có vật dụng gì bằng nhôm hoặc kim loại và cũng chẳng có cái gì gọi là chất đốt.
Đã từng có một nhà văn nào đó viết về nỗi ám ảnh của những chiếc bọc nhựa hai quay, nhìn đâu cũng có, thừa mứa muốn ói luôn. Vậy mà, trong trại tạm giam hay nói cụ thể trong phòng này thiếu những cái bọc nhựa hai quay là chết chắc. Có thể nói tất tần tật mọi sinh hoạt ở đây đều liên quan đến cái bọc mõng manh ấy. Tạm chia làm hai loại: bọc xịn và bọc tái chế. Bọc xịn dày, màu sắc đẹp được làm bằng cao su tốt khi kéo ra đến một mức nào đó có thể dùng làm dây phơi đồ, giăng mùng, cột túm mấy đồ dùng cá nhân treo tòng teng tỏn tẻn, làm phương tiện “chuyển hàng” từ phòng này qua phòng kia hay “văn nghệ” hơn là thắt hình con tôm làm móc đeo chìa khóa đẹp ác luôn. Còn bọc tái chế thì gom lại làm “hỏa tốc” một loại chất đốt chỉ có trong tù, không cháy dữ dội, ào ạt mà bền bỉ như chính sự nhẫn nại của những người sử dụng nó.
Những ngày đầu mới vào lúc nào ông ta cũng nằm nhắm mắt dàu dàu, tới bữa ăn lắc đầu làm mấy đứa trong phòng khoái chí tử, mà nuốt làm sao vô mớ cơm nấu bằng chảo đụn, xới bằng leng còn thức ăn là mấy khứa cá trê phi tanh rình được nuôi bằng chính chất thải ra của bọn ở đây. Cũng may, Tuấn là thằng hiểu chuyện nên mớ bánh tây sô-cô-bay, sô-cô-biết… gì đó nó không xung vào công quỹ của phòng, thỉnh thoảng chắc đói quá ông ta lại lấy ra ăn trong tâm trạng bất an thấy thương. Chuyện ông ta từng là thủ trưởng của gã không ai biết và cả hai dường như cũng thỏa thuận ngầm là không nói ra, nhiều lúc gã biết ông ta đang nhìn mình chăm chú như muốn nói điều gì. Nếu gã chủ động gợi chuyện trước chắc là ông ta sẽ thoải mái hơn nhưng gã quăng cục lơ làm ông ta mất hứng nín luôn.
Đâu hơn tháng sau, khi mà mỗi lần lên làm việc về phòng ông ta tự động cởi đồ khoe tấm thân trắng nhễ nhãi chớ không còn áo kín quần cài như lúc mới vô (nóng thấy bà luôn) thì cũng là lúc mấy món đồ thăm nuôi thưa dần. Tuần lễ đầu hai lần, tuần thứ hai y vậy, tuần thứ ba một lần rồi tuần thứ tư lơi dần, sang tuần thứ năm thì mất bóng. Nghe đâu cô thơ ký riêng già nhân ngãi non vợ chồng với ông ta đã cao bay xa chạy (cái này mấy đứa ở phòng lao động “tám” lại khi gã có dịp ra ngoài làm chuyện lặt vặt cho cán bộ). Lẽ ra, một người từng là thủ trưởng một cơ quan ngon lành phải có rất nhiều người thân mới phải, đằng này dường như khi ngã ngựa thì ông ta cũng mất luôn những mối quan hệ tiền hô hậu ủng trước đây. Không còn thăm nuôi nên ông ta cũng phải quen dần với bo cơm nhà trại, tối xuống cũng ngồi hì hục nấu nước sôi bằng ca nhựa chia nhau miếng mì ký rẻ tiền mà trước đây cho vàng ông cũng không ăn, đôi khi phòng hết “hỏa tốc” ông ta cũng nuốt ngon lành cái thứ mì trụng nước lạnh như ai.
Mà phải công nhận khi quá khổ tự nhiên con người ta nảy ra những “sáng kiến” tuyệt vời như kiểu nấu nước bằng bọc ny long (loại bao đựng xà bông), hay ca nhựa thoa dưới đít một chút xà bông cục, nếu không tận mắt chứng kiến đời nào gã tin. Nhưng có lẽ cái làm gã phục lăn là việc “chuyển hàng” từ phòng này qua phòng kia, nói là hàng chứ thực ra là thuốc lá mỗi lần vài điếu. Ở trại tạm giam này cái làm bọn gã bần thần nhất là việc cấm hút thuốc lá trong phòng, với những người ghiền thuốc thì quả là cực hình. Do đó, khi có thăm nuôi thằng nào “diếm” được mấy điếu đem về phòng là cả bọn chia nhau hút bình (chế bằng mấy chai dầu gội đầu) hà tiện từng sợi thuốc, kẹt quá thì vay tạm của phòng bên cạnh kiếm được trả sau. Mà cái vụ vay thuốc này kể ra mới thấy đúng là chỉ có “bọn tù” mới làm được. Phòng nào phòng nấy kín bưng, chỉ có hai lổ thông gió chỉ rộng bằng miếng gạch thẻ nằm trên cao cỡ hai thước. Hành lang phía trước cũng có vách ngăn hai phòng với nhau bằng một cánh cửa sắt chỉ mở khi phòng lao động đưa cơm nhưng đôi khi cán bộ cũng quên không đóng lại và nhờ đó mà bọn nó mới ra tay hoạt động được. Trước tiên, phải dọng gót chân vào tường báo hiệu cho phòng bên cạnh lên “mai” (tức lổ thông gió) nói chuyện, rồi một thằng lớn con công kênh một thằng nhỏ con kèm theo đồ nghề là một chiếc dép “lào” được cột chắc chắn bằng dây nhựa dài 5, 6 mét hoặc hơn nữa. Đầu tiên bên cho mượn sẽ quấn mấy điếu thuốc thật kín vào bọc ny long sau đó cột vào chiếc dép rồi ném xéo về phía cửa phòng bên này, cũng đồ nghề y vậy thằng bên đây sẽ ném chiếc dép làm sao cho vướng vào dây bên kia rồi từ từ kéo lên, gở thuốc ra ném trả lại chiếc dép cho bên kia kéo lên là xong. Nói là nói vậy chớ thật ra làm cũng chẳng dễ dàng gì bởi cái lổ thông gió quá nhỏ mà lại cao, thằng đứng dưới phải khỏe và thằng phía trên phải ném cho chính xác bằng không làm tới làm lui là dễ lộ khi cán bộ kiểm tra đột xuất.
Về phần ông ta sau khi đã “thông” tư tưởng, chắc là đã xác định mình sẽ ở đây lâu nên cũng hòa mình với đám “dân đen” trong phòng. Có lần ông ta xung phong công kênh thằng Tám lấy thuốc, chòi đạp thế nào mà bườn lên cả đầu ông ta khiến gã trông thấy cũng bất nhẫn. Vậy mà, ông ta chẳng nói gì lại cười hỉ hả khi cả phòng chia nhau từng “bi” thuốc.
Tuần trước mẹ và vợ gã vào thăm, khi nghe gã kể chuyện ông ta ở chung phòng trong này mẹ hắn tự nhiên lặng lẽ rơi nước mắt. Lúc ấy, gã nhủ thầm chắc mẹ mình lẩm cẩm rồi, hơi đâu thương người dưng mà lại là người đuổi việc hắn nữa chứ. Nếu còn làm bảo vệ thì chắc gã đâu gặp lại thằng bạn vàng để mà vô đây lãng xẹt như vậy. Thông thường khoảng nửa tháng mẹ hoặc vợ gã mới vào thăm nuôi một lần, chẳng biết có chuyện gì mà tuần này mẹ gã lại đến. Khi cán bộ gọi tên gã đã hết sức ngạc nhiên, tiền đâu mà thăm nuôi hàng tuần, vợ gã thì cũng đã về quê từ khi hắn bị bắt, nuôi con còn hổng xong nữa là. Kèm theo một mớ đồ nhà nghèo như ký mì vụn, bọc trà còn có một mo cơm mà mẹ hắn dặn đi dặn lại cái này dành cho ông ta. Ngộ nghen, hồi nào tới giờ mẹ gã chưa bao giờ gởi cơm cho gã cả vậy mà lặn lội từ quê lên để gởi cho ông ta mới ghê chớ.
Khi về phòng, đưa bọc đồ cho thằng Tám gã nói với Tuấn trưởng phòng mo cơm này mẹ gã gởi cho ông ta. Mặc kệ cho mấy thằng trong phòng tròn xoe mắt ngạc nhiên và cả ông ta cũng vậy. Mở ra, một gói cơm trắng và mớ cá bống kho tiêu, không hiểu sao ông ta nhìn trừng trừng rồi ngổi xuống cầm chiếc mo đựng cơm mà khóc. Đêm đó ông ta kéo chiếc chiếu lại nằm gần gã rồi nói: “Tôi thật có lỗi với mẹ của anh, ngày xưa chính bà đã nuôi giấu tôi suốt trong thời kỳ chiến tranh chính bằng những mo cơm và cá bống kho tiêu thế này. Có lần bọn địch càn ba bốn ngày, sợ tôi đói dưới hầm mẹ đã liều cả mạng sống của mình để mang cơm cho tôi. Vậy mà, tôi đã xử sự hết sức không phải với anh. Nay vào tù thì cũng chính mẹ mang cơm cho tôi chớ không phải là những người tôi tưởng là rất thương yêu mình…”.
Sáng hôm sau, gã vẫn còn thiu thiu ngủ thì nghe tiếng của ông ta:
- Cán bộ ơi! Cán bộ tôi xin được làm việc.

Thứ Tư, 3 tháng 12, 2008

NƠI CUÔI ĐẤT CÙNG TRỜI

Tại mộ Cụ Cao Văn Lầu

Tại Hòn Đá Bạc

Với Nhật Hồng tại chùa Xiêm Cán


Tại cửa biển Gành Hào



VỀ CÀ MAU


Về Cà Mau cứ muốn ở lâu lâu
Con gái miền biển cái gì cũng mặn mòi hết thảy
Cả nỗi đau cũng nhiều hơn xứ khác
Hết bão thiên nhiên đến bão lòng

Ta gã trai ruộng rẫy đồng bằng
Mê dế mèn – khoái phiêu lưu ký
Về Cà Mau nghêu ngao ly rượu đế
Thơm hương tóc em, say khỏi cần mồi

Về Cà Mau xứ cuối đất – cùng trời
Chợt cao hứng muốn làm phu tướng
Muốn có người: “chờ mong tin nhạn…”
Để được nhận nơi đây làm chốn đất lành

Về Cà Mau nhiều cái lạ vô cùng
Địa danh lạ: Vịnh Dừa – Giáp Nước
Cô gái lạ ở Vồ Dơi mới gặp
Vậy mà lạ kìa! Nhớ mãi không quean

Chuyến đi thực tế tại Cà Mau 18-22/11/2008